Thứ Bảy, 23/11/2024, 09:46 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Theo gương Bác
Đại hội XIII của Đảng đã thành công tốt đẹp. Để Nghị quyết Đại hội sớm đi vào cuộc sống, cấp ủy, chính quyền các cấp và nhân dân cả nước cần quán triệt, triển khai đồng bộ các giải pháp. Trong đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình tổ chức thực hiện là một nội dung có ý nghĩa hết sức thiết thực.
Hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một chuỗi liên hoàn, có hệ thống chặt chẽ, thể hiện ý chí và hành động để đạt được mục tiêu của cách mạng. Sau khi Đảng ra nghị quyết lãnh đạo, để biến những nội dung trong nghị quyết trở thành hiện thực, thì phải tổ chức thực hiện nghị quyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một hệ chuẩn, đó là một chuỗi liên hoàn với hệ thống chặt chẽ trong quy trình lãnh đạo của Đảng, gồm: 1. Xây dựng kế hoạch hoạt động của Đảng, xuất phát từ cương lĩnh, đường lối chung cả chặng dài, có tính chiến lược đến từng thời kỳ, từng nhiệm kỳ đại hội Đảng. 2. Xác định chủ đề hoặc đề án xây dựng dự thảo nghị quyết. 3. Thảo luận thật sự dân chủ các vấn đề đặt ra và quyết định bằng biểu quyết (thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng). 4. Tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, gồm các hoạt động: phân công trách nhiệm bộ phận hoặc cá nhân; xây dựng kế hoạch hoặc chương trình hành động để đưa nghị quyết vào cuộc sống; kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết để đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết, rút kinh nghiệm, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích, đồng thời phê bình, kỷ luật những tập thể, cá nhân có khuyết điểm, điều chỉnh, bổ sung nội dung không phù hợp hoặc còn thiếu.
Trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, Hồ Chí Minh nêu lên những vấn đề cụ thể, như sau:
Một là, phải có kế hoạch tỉ mỉ, chắc chắn. Xây dựng kế hoạch thực hiện nghị quyết phải hết sức thiết thực, không được chủ quan, không mắc bệnh: “Chỉ mấy cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà viết, cứ tưởng những cái mình làm là đúng, mình viết là hay. Nào có biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ, chắp cằm bà kia”, không ăn thua, không thấm thía, không ích lợi gì cả”1.
Hai là, phải nắm chắc nội dung của nghị quyết. Phải thảo luận để quán triệt nghị quyết. Theo Người: cách thảo luận phải thực sự dân chủ, trong lúc thảo luận, mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến. Muốn thế, phải “phái người đến báo cáo, giải thích”2; các cấp và đảng viên phải thảo luận nghị quyết cho rõ ràng, hiểu thấu ý nghĩa của nó và định cách thi hành cho đúng. Bên cạnh việc phải chuẩn bị kỹ càng, người báo cáo nghị quyết (báo cáo viên) phải truyền đạt đúng những nội dung nghị quyết để rồi vận dụng vào thực tế, tránh “nói mênh mông… chỉ một mình “ông” đại biểu, hay “bà” đại biểu nói, nói hàng hai, ba giờ đồng hồ… nói mênh mông trời đất, nói gì cũng có, nhưng chừa một điều là không nói đến những việc thiết thực cho địa phương đó”3, nói không ai hiểu.
Ba là, phải triển khai thực hiện nghị quyết một cách tích cực, khẩn trương. Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Khi thi hành, kềnh kềnh càng càng, không hoạt bát nhanh chóng. Hoặc thi hành một cách miễn cưỡng, không sốt sắng, không đến nơi đến chốn. Kết quả nhỏ là: nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần. Kết quả nặng là: phá hoại tổ chức của Đảng, giảm bớt kỷ luật của Đảng, bỏ mất thời cơ tốt, lúc nên làm thì không làm, khi làm thì trễ rồi”4. Người chỉ rõ: “Đảng cũng như thân thể một con người. Mệnh lệnh và nghị quyết cũng như mạch máu. Mạch máu chạy đều khắp thân thể thì người mạnh khỏe. Mạch máu dừng lại đâu, không chạy thì chỗ đó sẽ tê liệt, sinh bệnh. Mệnh lệnh và nghị quyết đi mau, đi suốt từ trên đến dưới, công tác mau chóng, việc gì cũng xong xuôi. Nó ngừng lại cấp nào, từ cấp đó trở xuống là tê liệt”5.
Bốn là, phải phát huy dân chủ và sáng kiến. Người nêu rõ: “dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo”6. Sáng kiến không phải chỉ là những điều to tát, mà có khi từ những việc tưởng rất nhỏ, nhưng rất thiết thực, hiệu quả thúc đẩy phong trào cách mạng rất cao.
Năm là, phải kiểm tra quá trình thực hiện nghị quyết. Công tác kiểm soát có vai trò rất quan trọng, Hồ Chí Minh cho rằng: “muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”7.
Hiện nay, nhiệm vụ cách mạng của nước ta đang đặt ra yêu cầu rất cao trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Nghị quyết, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra những mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong giai đoạn tới, thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam yêu nước, soi sáng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dù còn vô vàn khó khăn, thách thức đang ở phía trước. Vì vậy, quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong tổ chức thực hiện nghị quyết, văn kiện của Đảng hiện nay, cần tập trung vào những vấn đề chính sau đây:
1. Xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết đúng đắn, bảo đảm cụ thể, tỉ mỉ, toàn diện. Trong xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, phải tính đến hoàn cảnh cụ thể của Đảng, của đất nước, trong từng lĩnh vực, từng ngành, từng địa phương, cơ quan, đơn vị,… có chương trình, kế hoạch tổng thể và cụ thể của từng cấp, ngành, lĩnh vực. Các chương trình, kế hoạch này chính là bản thiết kế đúng đắn, nếu mà thiếu chúng thì khó có kết quả thiết thực khi thực hiện nghị quyết. Trong đó, phải xác định nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp cụ thể, thiết thực, phù hợp với địa phương, ngành mình; cần được tính toán cẩn thận từ các tổ chức, chuyên gia và được thảo luận một cách dân chủ; tránh sao chép kế hoạch, chương trình hành động của cấp trên. Nếu không, hậu quả sẽ “sai một ly, đi một dặm”, thậm chí bị mất phương hướng hành động, hoặc hành động tự phát, thiếu tính khoa học, thiếu bài bản đối với một Đảng cầm quyền, Đảng hành động, Đảng có sức mạnh tập hợp và kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại để hướng mọi lực vào một véctơ duy nhất nhằm đạt mục tiêu mà nghị quyết của Đảng đề ra, theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh: Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người (muôn người như một, thống nhất ý chí và hành động).
2. Tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân chặt chẽ, nghiêm túc. Để đạt hiệu quả, ngoài sử dụng phương pháp truyền thống, việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, cần đổi mới phương pháp, hình thức, bảo đảm tính phong phú, hiệu quả, thiết thực. Tổ chức học tập, quán triệt ở từng cấp, từng đợt, từng đối tượng; đồng thời, cần đi sâu vào từng lĩnh vực theo từng môi trường công việc của các cơ quan, đơn vị, địa phương. Phải lựa chọn và xây dựng đội ngũ báo cáo viên có đạo đức cách mạng trong sáng, nắm chắc và hiểu sâu nội dung nghị quyết; có trình độ thuyết trình tốt và có năng lực trong quản lý việc học tập, quán triệt nghị quyết; vừa truyền đạt đúng tinh thần của nghị quyết, vừa mở rộng vấn đề và đi sâu phân tích để hiểu rõ từng nội dung. Mặt khác, cần phát huy tinh thần tích cực của cán bộ, đảng viên và toàn dân trong tự học tập, tự nghiên cứu văn kiện, nghị quyết của Đảng. Trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển, để việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng được kịp thời, nhất là khi tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, cần áp dụng các hình thức, phương pháp phù hợp với đặc điểm và khả năng của từng cơ quan, đơn vị và địa phương, để vừa bảo đảm học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng được kịp thời, đúng quy định, vừa phòng, chống dịch hiệu quả.
3. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện nghị quyết. Không kiểm tra, giám sát thì không có lãnh đạo. Thực tế hoạt động của Đảng, nhất là trong những năm đổi mới, hầu như tất cả những khuyết điểm, hạn chế của tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên đều có nguyên nhân từ không chú trọng đúng mức tới công tác kiểm tra, giám sát. Nếu làm tốt công tác này trong tổ chức thực hiện nghị quyết thì sẽ khắc phục được một số nơi để xảy ra tình trạng “trên nóng dưới lạnh”, “trên trải thảm, dưới rải đinh”. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, cần khắc phục được căn bệnh nói và làm không đi đôi với nhau; nói nhiều nhưng làm ít, nói thì hay làm thì dở, nói mà không làm, nói một đằng làm một nẻo. Cũng như vậy, sẽ khắc phục được tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, phát mà không động, hòa cả làng, v.v. Rốt cuộc, nghị quyết chỉ nằm trên giấy, không đi vào cuộc sống, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trì trệ, tiêu cực.
4. Phải thể hiện khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc bằng hành động toàn tâm, toàn ý thực hiện thật tốt nghị quyết của Đảng. Khẳng định rằng, chưa bao giờ người Việt Nam có khát vọng cháy bỏng để xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu như hiện nay. Khát vọng đó, được thể hiện rõ ở bản lĩnh, trí tuệ, ý chí của Đảng. Với nghĩa đó, Đảng đã đại diện cho giai cấp công nhân, đồng thời đại diện cho toàn dân, toàn quân thể hiện khát vọng đó trong hành động thực tiễn. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là các quyền dân tộc cơ bản, thiêng liêng của đất nước ta, là nguyên tắc hành động trong đối nội và đối ngoại bất di bất dịch của đất nước ta. Nghị quyết của Đảng được thể chế hóa trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt nghị quyết của Đảng, chính là thực hiện tốt trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của công dân. Đó còn là thực hiện sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của mọi người dân Việt Nam yêu nước. Vì vậy, toàn Đảng toàn dân, toàn quân cần phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với tinh thần đổi mới, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, biến những quyết định quan trọng của Đảng thành hiện thực sinh động trên thực tế, vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực hiện tốt các giải pháp cơ bản trên, là hành động thiết thực, sớm đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, xây dựng đất nước tiếp tục phát triển đi lên, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc Người đi xa: “Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”8.
GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG - ThS. LÊ VĂN CƯỜNG* ___________________
* - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng.
1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 287.
2 - Sđd, Tập 5, tr. 300.3 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 343.
4 - Sđd, Tập 5, tr. 299.
5 - Sđd, Tập 5, tr. 299.
6 - Sđd, Tập 5, tr. 284.
7 - Sđd,, Tập 5, tr. 327.
8 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 614.
Tư tưởng Hồ Chí Minh,Đại hội XIII của Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam 22/11/2024
Làm theo lời Bác, Sư đoàn 968 thi đua huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm 18/11/2024
Binh chủng Hóa học đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XIII) 11/11/2024
Làm theo lời Bác, Vùng Cảnh sát biển 4 nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên biển 31/10/2024
Hiệu quả học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy ở Sư đoàn Bộ binh 5 21/10/2024
Lực lượng vũ trang Quảng Nam đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị 10/10/2024
Người chiến sĩ “Binh đoàn xanh” tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên (Tiếp theo và hết) 01/10/2024
Người chiến sĩ “Binh đoàn xanh” tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên (Tiếp theo) 26/09/2024
Hiệu quả học tập và làm theo lời Bác trong phong trào Thi đua “Đồng khởi mới” của lực lượng vũ trang tỉnh Bến Tre 23/09/2024
Người chiến sĩ “Binh đoàn xanh” tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên 17/09/2024
Làm theo lời Bác, Vùng Cảnh sát biển 4 nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên biển
Binh chủng Hóa học đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XIII)
Làm theo lời Bác, Sư đoàn 968 thi đua huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam