Thứ Hai, 25/11/2024, 23:21 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Theo gương Bác
Phong cách dân vận Hồ Chí Minh mang đậm dấu ấn riêng, gắn liền với tư tưởng, đạo đức của Người. Đó là phong cách của một vĩ nhân, lãnh tụ vĩ đại, chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, có giá trị khoa học và lan tỏa sâu rộng. Học tập và làm theo phong cách dân vận Hồ Chí Minh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác dân vận, huy động được sức dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phong cách dân vận Hồ Chí Minh là một hệ thống chỉnh thể, gắn bó, phát triển từ tư duy đến sự biểu đạt bằng ngôn ngữ nói, viết và hành động cụ thể để vận động nhân dân (hay nói cách khác là dân vận) thực hiện thắng lợi công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cách đây 79 năm, Người viết bài báo “Dân vận” đăng trên Báo Sự Thật (ngày 15-10-1949). Với gần 800 từ, bằng lối hành văn giản dị, rõ ràng, trong sáng, Bài báo đã thể hiện rõ quan điểm, nội dung, lực lượng, phong cách dân vận của Người. Đây được coi là “cương lĩnh” về công tác dân vận của Đảng; là “cẩm nang” của cán bộ, đảng viên, nhất là những người trực tiếp làm công tác quan trọng này. Không chỉ lý luận, cuộc đời hoạt động cách mạng trên một không gian rộng lớn, với nhiều cương vị khác nhau, Hồ Chí Minh còn thực hành hiệu quả những quan điểm, tư tưởng về dân vận, hình thành nên phong cách dân vận rất riêng, đặc sắc của Người.
Trước hết, phong cách dân vận của Bác được thể hiện ở tinh thần trọng dân, gần dân, lắng nghe và tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân. Phong cách này, bắt nguồn từ sự thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê-nin: quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; đồng thời, kế thừa tư tưởng “trọng dân” của dân tộc ta một cách thành tâm, thật lòng. Với lòng tin vô hạn về sức mạnh của nhân dân, đối với mọi người, bất kể ai, ở giai tầng nào, Hồ Chí Minh đều thấy “tính bản thiện”, tinh thần yêu nước, khát khao độc lập, tự do, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ đó, Người thường xuyên liên hệ chặt chẽ với mọi tầng lớp trong xã hội, kiên trì lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, có biện pháp giải thích để họ hiểu rõ, đồng thuận với đường lối của Đảng, tạo nguồn sức mạnh để chiến thắng “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh. Với Người, “nước lấy dân làm gốc”; “nước ta là nước dân chủ”; “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, và rằng: “gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”1. Chính vì thế, “Việc dân vận rất quan trọng”. Dân vận là nhằm “… vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”2. Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh đã cảm hóa được mọi người dân, kể cả những ai vốn chưa có cảm tình với Đảng Cộng sản và chính quyền cách mạng để làm cho họ tự nguyện đi theo sự nghiệp cách mạng và những người đã tích cực đi theo sự nghiệp cách mạng thì càng hăng hái hơn. Đặc biệt, có những người suýt, hoặc đã sa chân sang hàng ngũ bên kia khi được Người cảm hóa đã chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức, tư tưởng và trở về tham gia cách mạng.
Tính khoa học, thiết thực, cụ thể là nội dung cơ bản tạo nên phong cách dân vận Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, ở đâu, bất cứ cương vị nào, trong thực hành công tác dân vận, Người luôn “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”3. Trong đó, óc nghĩ, là sự suy nghĩ, tìm tòi, hiểu biết về lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao khả năng tuyên truyền, thuyết phục nhân dân; nắm bắt được tâm tư, tình cảm của quần chúng để có giải pháp đúng đắn; kịp thời phát huy tính tích cực, ngăn chặn mặt tiêu cực phát sinh. Cán bộ dân vận phải tham mưu, đề xuất cho Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp xây dựng, ban hành được đường lối, chính sách hợp lòng dân; có trình độ tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng. Mắt trông, là thấy rõ yêu cầu nhiệm vụ theo chức trách và thực tiễn cách mạng để thực hành cho đúng, cho trúng. Thực hiện tốt điều này sẽ tránh được bệnh quan liêu, chỉ ngồi nghe báo cáo rồi nhận định, phán xét. Tai nghe, là lắng nghe ý kiến phản biện để kịp thời xử lý những thông tin từ quần chúng. Nghe dân nói, hiểu được nguyện vọng chính đáng của dân và biết loại trừ những thông tin nhiễu, thiếu chân thực, không khách quan, không đúng sự thật là phương pháp mang tính khoa học trong phong cách Hồ Chí Minh. Chân đi, dù bận trăm công nghìn việc nhưng Hồ Chí Minh vẫn luôn dành thời gian đến với cơ sở, với dân như về gia đình mình. Những chuyến đi này, có khi Người không báo trước, chẳng cần xe đưa, rước theo kiểu “cờ rong, trống mở”,... làm phiền cơ sở và người dân. Xuống với dân, về với cơ sở, Người đi sâu vào tìm hiểu thực tiễn, thấu hiểu, cảm thông với những khó khăn của nhân dân, ở cơ sở và luôn dùng những lời nhẹ nhàng, cụ thể, sâu sắc để vận động nhân dân, khuyến khích cơ sở vượt khó vươn lên, nên thường đạt kết quả rất cao, để lại ấn tượng sâu sắc. Miệng nói, là chức năng cơ bản của dân vận, nhằm tuyên truyền, cổ động nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Để dân hiểu, dân tin, dân ủng hộ và làm theo, Hồ Chí Minh luôn nói đúng, trúng vấn đề, với phong cách giản dị và thái độ đúng mực. Với người già, các bậc lão thành thì lời lẽ cung kính lễ độ; với đồng chí, đồng bào thì thật thà, khiêm tốn; với phụ nữ thì đúng mực nghiêm trang; với nhi đồng là thương yêu quý mến, nhắc nhở, động viên, v.v. Tay làm, là nói được, phải làm được, thậm chí cần thiết thì làm mẫu để dân tin, v.v.
Trong vận động quần chúng, khi “gặp mỗi vấn đề’, Hồ Chí Minh luôn “suy tính kỹ lưỡng” và “điều tra, nghiên cứu rõ ràng” để có quyết định đúng, trúng, hợp lòng dân, chứ không bao giờ hấp tấp, làm bừa, làm ẩu, gặp sao làm vậy. Khi làm xong công việc, Người đều tổng kết, rút kinh nghiệm để làm “khuôn phép” cho những công việc khác. Đây chính là thái độ khoa học, lý luận luôn gắn với thực tiễn, là “chìa khóa” để thực hiện tốt nhiệm vụ và rèn luyện chính mình. Trong thực hành dân vận, cách làm nào không phù hợp, thì Người kiên quyết sửa cho đúng, sát thực tư tưởng, trình độ, tâm tư, nguyện vọng của từng đối tượng dân vận. Khi hoàn thành công việc thì cùng với dân kiểm thảo lại, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng, v.v. Như vậy, nắm vững nội dung, mục đích công việc, giải thích cho dân hiểu, bàn bạc với dân, tổ chức toàn dân thực hiện, kiểm tra, kiểm điểm rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng là phong cách dân vận Hồ Chí Minh và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Đảng ta. Làm được như vậy, sẽ tránh được bệnh “hữu danh vô thực”; chỉ thị, nghị quyết không gắn với thực tế; làm việc thiếu kế hoạch, biện pháp cụ thể; không kiểm tra, kiểm soát, tổng kết đúc rút kinh nghiệm; làm được ít suýt ra nhiều; ngồi “bàn giấy”, nghe báo cáo rồi “vẽ vời” để sản xuất ra bản báo cáo rất kêu, nhưng lại rỗng tuếch.
Phong cách dân vận Hồ Chí Minh là sự thống nhất biện chứng giữa nói và làm. Với Hồ Chí Minh, “Miệng nói, tay làm”, “thật thà nhúng tay vào việc”, nói ít, làm nhiều, làm đến đâu hiệu quả đến đó là phương pháp vận động quần chúng tốt nhất. Trên thực tế, trong bất cứ lúc nào, ở cương vị nào, công việc nào, Người đều làm việc một cách hăng say, thật sự, cùng lao động, cùng chiến đấu, lăn vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân để thực hiện mục đích dân vận. Cũng cần phải nói rằng: “Miệng nói, tay làm”, nói ít, làm nhiều, làm có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân là một giá trị văn hóa, đạo đức của dân tộc Việt Nam. Là một nhà văn hóa kiệt xuất, Hồ Chí Minh đã cảm nhận, thực hành điều này một cách tự nhiên, tự giác từ lòng mình, hết sức nhuần nhuyễn đã trở thành phong cách của riêng Người. Phong cách này, đối lập với những “quan cách mạng” luôn “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”, nói mà không làm, hoặc nói một đằng, làm một nẻo, nói nhiều làm ít, hoặc đánh trống, bỏ dùi, hứa hươu, hứa vượn, vô cảm trước bức xúc của người dân.
Tự mình nêu gương là điểm đặc sắc trong phong cách dân vận Hồ Chí Minh. Thực tế cho thấy, các dân tộc phương Đông vốn giàu tình cảm và đối với họ, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Sự “nêu gương” có sức lan tỏa, thuyết phục, hướng dẫn rất lớn và lâu dài. Để nhân dân tin tưởng, noi theo, Người luôn làm chủ mọi hành vi của bản thân, không ham muốn công danh phú quý, danh lợi, thường xuyên gìn giữ sự giản dị, lành mạnh trong cuộc sống, công việc, cả cuộc đời vì nước, vì dân. Hình ảnh Hồ Chí Minh chịu mọi khổ ải, nhất là lúc hoạt động bí mật, thời gian ở trong tù, như: ăn đói, mặc rét, bị trói và dẫn giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác, thậm chí rụng răng, ghẻ lở, rệp cắn,… nhưng vẫn đau đáu nghĩ về nỗi đau của nước, của dân, về cách mạng và tương lai tươi sáng của dân tộc,… là một tấm gương truyền cảm hứng mạnh mẽ vào niềm tin tất thắng cho nhân dân. Trong kháng chiến, thường xuyên “cháo bẹ rau măng”, làm việc ở “bàn đá chông chênh”,… khi đất nước giành được độc lập, Người tự nguyện sống, làm việc trong một ngôi nhà cấp 4, sau này (năm 1958) là nhà sàn giản dị; ăn uống hết sức thanh đạm; mang mặc giản dị, chỉ bộ ka-ki, dép lốp cao su, v.v. Người dành dụm tiền lương, tiền nhuận bút do viết sách, viết báo,… để tặng quà cho các cháu thiếu niên, nhi đồng, các cụ già, ủng hộ bộ đội, dân quân tự vệ, v.v. Nếp sống này được Người thực hiện một cách rất tự nhiên, nền nếp, nên đã làm lay động lòng người gần xa. Người thực sự là tấm gương: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế có những thuận lợi là cơ bản, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Vì vậy, học tập phong cách dân vận Hồ Chí Minh, “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4 là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa quyết định để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Học tập, làm theo, đưa phong cách dân vận Hồ Chí Minh đi vào cuộc sống là hành động thiết thực nhất đối với cán bộ, đảng viên, nhất là đối với những người làm công tác dân vận, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình mới./.
MINH QUÂN _________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 410.
2 - Sđd, tr. 698.
3 - Sđd, tr. 699.
4 – ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2011, tr.49-50.
Phong cách dân vận,Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam 22/11/2024
Làm theo lời Bác, Sư đoàn 968 thi đua huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm 18/11/2024
Binh chủng Hóa học đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XIII) 11/11/2024
Làm theo lời Bác, Vùng Cảnh sát biển 4 nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên biển 31/10/2024
Hiệu quả học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy ở Sư đoàn Bộ binh 5 21/10/2024
Lực lượng vũ trang Quảng Nam đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị 10/10/2024
Người chiến sĩ “Binh đoàn xanh” tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên (Tiếp theo và hết) 01/10/2024
Người chiến sĩ “Binh đoàn xanh” tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên (Tiếp theo) 26/09/2024
Hiệu quả học tập và làm theo lời Bác trong phong trào Thi đua “Đồng khởi mới” của lực lượng vũ trang tỉnh Bến Tre 23/09/2024
Người chiến sĩ “Binh đoàn xanh” tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên 17/09/2024
Làm theo lời Bác, Vùng Cảnh sát biển 4 nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên biển
Binh chủng Hóa học đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XIII)
Làm theo lời Bác, Sư đoàn 968 thi đua huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam