QPTD -Thứ Năm, 04/09/2014, 16:41 (GMT+7)
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng theo Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh

45 năm đã đi qua kể từ khi Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta công bố lần đầu trong Lễ tang Người tháng 9 - 1969, nhưng đến nay, những lời căn dặn trong bản Di chúc thiêng liêng đó vẫn vang vọng trong mỗi chúng ta, đặc biệt là vấn đề đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đó là tài sản vô giá của Đảng để Đảng ta theo đó xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xứng đáng là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

 

Trong bản Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, nội dung đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong công tác xây dựng Đảng là vấn đề đoàn kết, thống nhất (ĐK,TN). Đây là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo cho Đảng thực sự vững mạnh, vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử, đó là: lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng. Nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sự ĐK,TN trong Đảng, Người viết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[1]. Và Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình[2]. Cùng với lời căn dặn đầy tâm huyết đó trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra biện pháp củng cố và tăng cường sự ĐK,TN trong Đảng qua những bài viết, nói chuyện với cán bộ, đảng viên (CB,ĐV) và nhân dân, tựu chung là: phải đề cao thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình (TPB&PB), có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau. Mỗi cán bộ, đảng viên (CV,ĐV) phải lấy sự nghiệp cách mạng của Đảng làm mục tiêu, lý tưởng phấn đấu, đặt lợi ích chung lên trên, lên trước lợi ích cá nhân, toàn tâm toàn ý với công việc, luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, v.v.

Toàn văn bản Di chúc không dài, được Người viết từ năm 1965 và bổ sung qua mỗi năm; trong đó, Người đã nhiều lần đề cập đến vấn đề ĐK,TN trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Điều đó thể hiện sâu sắc tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng. Kết thúc của bản Di chúc, Người lại nhấn mạnh:“Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Có thể khẳng định, Di chúc là công trình lý luận về xây dựng Đảng và củng cố Đảng cầm quyền và “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải luôn vững vàng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Và, vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng là giữ vững sự ĐK,TN trong Đảng. Nghiên cứu nội dung Di chúc và cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta dễ dàng nhận thấy, tư tưởng, tình cảm, lòng mong muốn đó của Người xuất phát từ truyền thống ĐK,TN của dân tộc ta qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước; được khẳng định trong thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và trở thành ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Khi nói về Đảng, thì yêu cầu đầu tiên trong tư tưởng của Người là phải quan tâm đến vấn đề ĐK,TN. Bởi, ĐK,TN là sức mạnh của Đảng, thiếu nó Đảng không thể mạnh lên mà chỉ yếu đi. Hơn thế nữa, ĐK,TN trong Đảng là điều kiện, hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự sống còn của cách mạng Việt Nam. Lời căn dặn đầy tâm huyết của Người đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động cho Đảng ta trong suốt quá trình xây dựng, chỉnh đốn và phát huy vai trò lãnh đạo trong các giai đoạn cách mạng. Từ đây, đặt trách nhiệm cho mỗi CB,ĐV và tổ chức đảng là phải giữ gìn, xây dựng và tăng cường sự ĐK,TN đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ mới.

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người, 45 năm qua, Đảng ta luôn coi trọng giữ gìn sự ĐK,TN, lấy đó làm cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; quy tụ và phát huy sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Tại các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề ĐK,TN đều được xem xét, đánh giá một cách nghiêm túc và sâu sắc. Nhờ đó, Đảng đã không ngừng mạnh lên, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tổng kết thực tiễn cách mạng 10 năm sau ngày nước nhà thống nhất, Đại hội VI của Đảng đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm quý, trong đó có bài học: “Tăng cường sự đoàn kết nhất trí, sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng”. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, lúc cách mạng phát triển thuận lợi, hay lúc sóng gió, khó khăn, trước những bước ngoặt của lịch sử, Đảng vẫn luôn là một khối thống nhất về ý chí, tư tưởng và hành động. Bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế, Đảng càng quan tâm chăm lo đến sự ĐK,TN, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Mỗi khi có vấn đề nảy sinh về nhận thức và hành động ảnh hưởng đến sự ĐK,TN trong Đảng, thì vũ khí TPB&PB theo tư tưởng Hồ Chí Minh lại được phát huy; tình cảm, trách nhiệm của mỗi thành viên đối với Đảng lại thêm gắn bó. Vì thế, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng luôn được bồi đắp; niềm tin vào Đảng của CB,ĐV và nhân dân ngày càng được củng cố. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới, xây dựng  và bảo vệ đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn: kinh tế - xã hội có bước phát triển vượt bậc; đời sống nhân dân được cải thiện; quốc phòng - an ninh được tăng cường; vị thế của Việt nam trên trường quốc tế được khẳng định.

Tuy nhiên, trong những năm qua, nhất là từ trước khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, một số tổ chức đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ kéo dài, chậm được khắc phục, thậm chí còn có xu hướng phát triển ở nơi này, nơi khác, không chỉ ở cơ sở; chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng trong một bộ phận CB,ĐV, kể cả cán bộ cấp cao. Không ít tổ chức đảng chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực chưa nghiêm; sự đoàn kết, nhất trí của một số cấp ủy còn yếu. Những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, cục bộ địa phương chưa được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, v.v.

Từ thực tiễn 84 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam và 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta càng nhận thức sâu sắc ý nghĩa to lớn của vấn đề ĐK,TN, đặc biệt là ĐK,TN trong Đảng. Kinh nghiệm cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc và sự ĐK,TN trong Đảng được quán triệt, thực hiện nghiêm túc, thì khi đó, nơi đó cách mạng đạt được thành tựu và phát triển. Ngược lại, cách mạng sẽ gặp khó khăn, thậm chí bị tổn thất nghiêm trọng. Đặc biệt, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, khi thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn luôn đan xen, với nhiều tình huống diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đòi hỏi Đảng càng phải có quyết tâm chính trị cao, sự ĐK,TN chặt chẽ mới vượt qua được. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, lợi dụng khó khăn, khuyết điểm để bôi nhọ, nói xấu Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc để mua chuộc, kích động, chia rẽ nội bộ Đảng và khối đại đoàn kết dân tộc,... Hơn lúc nào hết, sự ĐK,TN trong Đảng càng phải được thể hiện rõ. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ĐK,TN trong Đảng cần tiếp tục được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, trở thành động lực, nguồn sức mạnh to lớn trong sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để làm được điều đó, cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức về sự ĐK,TN trong Đảng. Khi nhận thức tư tưởng được nâng cao, CB,ĐV sẽ thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của ĐK,TN trong Đảng, giúp họ có quyết tâm phấn đấu và cống hiến, giải quyết hài hòa lợi ích chung - riêng, chung sức chung lòng vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta. Thông qua giáo dục để CB,ĐV nhận thức sâu sắc rằng, sự ĐK,TN trong Đảng phải dựa trên cơ sở nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, trên tình thương yêu đồng chí, đồng đội, chứ không phải đoàn kết theo kiểu hình thức, xuôi chiều, nể nang, “dĩ hòa vi quý”. Trên cơ sở nhận thức đúng, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động, giữ vững sự đồng thuận trong Đảng và trong xã hội, tạo tiền đề quan trọng để tăng cường sự ĐK,TN trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng. Mỗi CB,ĐV phải tự điều chỉnh và tu dưỡng, rèn luyện cho phù hợp với yêu cầu chung; gắn mình với tập thể, “dĩ công vi thượng”, luôn phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Những nhận thức và hành động trái với nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng cần phải được kiên quyết loại trừ. Cùng với đó, phải chủ động đấu tranh với những luận điểm cơ hội, xuyên tạc, xét lại, gây mất đoàn kết nội bộ. Như vậy, ĐK,TN trong Đảng mới được đảm bảo vững chắc; sức mạnh và ý chí của Đảng mới được tăng cường trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng .

Hai là, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Phát huy trí tuệ, sức sáng tạo của CB,ĐV là cơ sở của sự ĐK,TN trong Đảng. Muốn thế, phải mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng và dân chủ ngoài xã hội để họ bày tỏ hết ý kiến của mình; nói lên được những tâm tư, nguyện vọng cùng những đề xuất cá nhân cho chương trình, giải pháp lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp. Dân chủ rộng rãi không tách rời tập trung nghiêm ngặt. Theo đó, dân chủ phải dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, quan điểm của Đảng, quy chế, quy định, nghị quyết của tổ chức đảng các cấp; mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, mọi chủ trương, biện pháp lãnh đạo phải dựa trên trí tuệ của tập thể, không áp đặt ý kiến cá nhân. Khi đã có kết luận, mọi người, trước hết là đảng viên phải tuân thủ và thực hiện nghiêm túc theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Đối với những vấn đề phức tạp nảy sinh, cần có sự trao đổi, bàn bạc, tôn trọng ý kiến cấp dưới, tránh sự độc đoán, gia trưởng; phát huy trí tuệ tập thể phải đi đôi với đề cao vai trò, trách nhiệm, ý chí của cá nhân người đứng đầu, có sự phân công, phân cấp cụ thể trong lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành. Chỉ có như vậy, mới quy tụ được sức mạnh tập thể, giải tỏa được mọi vướng mắc và mới đi đến hành động thống nhất. Cùng với đó, các cấp ủy phải rà soát, hoàn chỉnh hệ thống các quy chế, quy định, nhất là các mặt công tác trọng yếu, dễ phát sinh tiêu cực, mất đoàn kết; đổi mới phương pháp, tác phong công tác, làm việc theo chức trách, nhiệm vụ, không bao biện, làm thay, cá nhân, cục bộ, v.v.  

Ba là, đẩy mạnh TPB&PB trong sinh hoạt và hoạt động của các tổ chức đảng. TPB&PB là vũ khí sắc bén, tạo động lực cho mỗi CB,ĐV đoàn kết, tiến bộ, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi TPB&PB là “cách tốt nhất”, là “thang thuốc” hữu hiệu nhất để phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, từ đó tạo sự ĐK,TN trong Đảng. Trong tình hình hiện nay, TPB&PB ở các tổ chức đảng phải quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Việc tiến hành TPB&PB phải tiến hành từ trên xuống, từ dưới lên, phê bình việc làm chứ không phê bình người và phải thường xuyên như “rửa mặt hằng ngày”. Trong phê bình phải trung thực, thẳng thắn, chân thành, rõ ưu điểm và nhược điểm, không né tránh nhưng cũng không lợi dụng phê bình để đả kích, “hạ bệ” lẫn nhau. Cần tôn trọng sự thật, lẽ phải, không bao che hoặc thổi phồng, bóp méo khuyết điểm; đánh giá đầy đủ, đúng đắn ưu điểm, nhược điểm của từng tổ chức, cá nhân để từ đó đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo phù hợp. Đồng thời với đẩy mạnh TPB&PB, cần kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, “lợi ích nhóm”, coi đó là hai mặt của một quá trình tu dưỡng, phấn đấu của người CB,ĐV, tạo nền tảng vững chắc cho sự ĐK,TN trong Đảng.

Bốn là, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đối với việc giữ vững sự ĐK,TN trong tổ chức đảng và trong các cơ quan, đơn vị. Giữ trọng trách chủ trì cơ quan, đơn vị, người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, cũng như sự ĐK,TN nội bộ. Bởi vậy, phẩm chất, năng lực, vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng, là trung tâm của sự ĐK,TN trong tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Học tập Di chúc của Bác, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cần quán triệt và chấp hành nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các nguyên tắc, quy chế, quy định và chế độ công tác; gương mẫu trong TPB&PB và khắc phục khuyết điểm; đem lòng chí công vô tư mà xử lý công việc, đối xử với mọi người và chính bản thân mình. Bằng nội dung, biện pháp thích hợp, người đứng đầu tổ chức triển khai các nghị quyết, chỉ đạo tiến hành tổ chức cấp mình thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI); quan tâm, tạo điều kiện để CB,ĐV thuộc quyền thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ và khắc phục khuyết điểm còn tồn tại một cách nghiêm túc, tự giác. Đồng thời, phải thể hiện rõ thái độ công tâm, ủng hộ cái đúng, bảo vệ chân lý, phê phán cái sai; chống mọi biểu hiện “dĩ hòa vi quý”, thấy đúng không bảo vệ, sai không đấu tranh, phê bình. Mặt khác, phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp ủy, tổ chức đảng và giải quyết hài hòa các mối quan hệ công tác, làm cho sự ĐK,TN trong Đảng thực sự trở thành hạt nhân đoàn kết trong hệ thống chính trị. 

Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời biểu hiện mất đoàn kết trong Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc tăng cường ĐK,TN trong Đảng, giúp cho cấp uỷ kịp thời phát hiện và ngăn chặn nguyên nhân, xử lý hiện tượng mất đoàn kết. Đồng thời, là biện pháp cụ thể, thiết thực giúp cho các tổ chức đảng, CB,ĐV chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng và các quy chế, chế độ quy định, không ngừng chăm lo vun đắp cho việc tăng cường khối ĐK,TN trong Đảng. Với những cán bộ qua kiểm tra phát hiện có biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, độc đoán, chuyên quyền, bè phái, cục bộ, mất đoàn kết phải xử lý nghiêm túc, khi cần có thể thay thế. Với tổ chức đảng cần phát hiện sớm những biểu hiện mất đoàn kết, có biện pháp khắc phục trên cơ sở các nguyên tắc của Đảng và đề cao tình đồng chí, đồng đội. Cùng với đó, cần quan tâm bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho các đối tượng; tích cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự đồng thuận trong Đảng và trong xã hội.

Kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng ghi sâu lời dạy của Bác về sự ĐK,TN trong Đảng; lấy đó làm nền tảng để Đảng định ra đường lối đúng đắn và biến nó thành hành động cách mạng của quần chúng. Đặc biệt phải coi việc giữ vững, tăng cường sự ĐK,TN trong Đảng là trách nhiệm của  cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là cán bộ chủ trì các cấp, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng theo đúng lời căn dặn của Bác Hồ trước lúc Người đi xa./.

 

Đại tá, TS. ĐỖ HỒNG LÂM

 

 


1,2 – Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H.2002, tr. 510.

 

 

Ý kiến bạn đọc (0)

Tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà đặc biệt là tự phê bình và phê bình, được Người đề cập và xác định là việc làm trước tiên sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi. Những di huấn quan trọng này của Người vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.