Sự kiện lịch sử Những ngày kỷ niệm lớn

QPTD -Chủ Nhật, 16/08/2020, 21:34 (GMT+7)
Tăng cường đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc

Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đều là lực lượng vũ trang cách mạng nòng cốt, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Sinh thời, Bác Hồ đã căn dặn: “Công an và Quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau”1. Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Người, 75 năm qua, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Điều đó đã trở thành truyền thống vẻ vang, bài học kinh nghiệm quý báu giữa hai lực lượng, là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần làm nên thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Ngô Xuân Lịch. Ảnh: cand.com.vn

Đoàn kết, gắn bó, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân mang đậm bản chất cách mạng, kế thừa sâu sắc truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc, kết hợp với tinh thần gương mẫu, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của hai lực lượng; là mối quan hệ thuộc về bản chất giữa các thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân - công cụ bạo lực chủ yếu bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, xuất phát từ yêu cầu tất yếu khách quan của mối quan hệ biện chứng giữa nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; giữa nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Bởi vậy, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, mối quan hệ đoàn kết, gắn bó, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã trở thành nhân tố quan trọng không chỉ giúp mỗi lực lượng hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, mà còn tạo nên sức mạnh nội sinh cùng với toàn Đảng, toàn dân làm nên những chiến công, thành tích xuất sắc trong chiến tranh giải phóng dân tộc trước đây và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Ngay sau khi đất nước vừa giành được độc lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã phát huy thế mạnh của từng lực lượng phối hợp, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ an toàn tuyệt đối sự kiện chính trị lịch sử trọng đại của đất nước - Ngày Quốc khánh 02/9/1945, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ2 vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, trong bối cảnh vận mệnh của đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân cả nước đã đồng loạt đứng lên kháng chiến, sẵn sàng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước”3; trong đó, lực lượng Công an xung phong Hà Nội đã phối hợp, hiệp đồng với các đơn vị Quân đội, Dân quân tự vệ và nhân dân trên địa bàn chiến đấu anh dũng, “mỗi căn nhà là một pháo đài, mỗi góc phố là một chiến lũy”, bảo vệ Thủ đô trong 60 ngày đêm, góp phần làm phá sản kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, tạo điều kiện để các cơ quan chính quyền, đoàn thể vận chuyển, di chuyển tài liệu, kho tàng, tài sản quốc dân và tản cư người dân ra khỏi vùng có chiến sự.

Trong chín năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã đồng cam, cộng khổ, chịu nhiều gian khổ, hy sinh, tăng cường phối hợp, hiệp đồng chiến đấu trên tất cả các mặt trận. Trong vùng địch tạm chiếm, hai lực lượng tập trung xây dựng cơ sở, nắm vững tình hình, diệt ác, phá tề, trừ gian, trấn áp bọn mật thám, phản động nguy hiểm và tổ chức những trận đánh ngay trong lòng địch. Ở vùng tự do và hậu phương căn cứ cách mạng, mối quan hệ đoàn kết, gắn bó được thể hiện thông qua công tác phối hợp xây dựng, củng cố lực lượng, đấu tranh chống hoạt động do thám, gián điệp, phản động tay sai; chủ động hiệp đồng chiến đấu, bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch, bảo vệ vững chắc hậu phương và khu căn cứ kháng chiến. Trên các chiến trường, nhất là trong các chiến dịch lớn, lực lượng Công an đã phối hợp với lực lượng Quân báo của Quân đội và lực lượng vũ trang địa phương tổ chức nắm vững tình hình, bảo vệ bí mật quân sự, bảo vệ an ninh, an toàn giao thông cho các trục đường vận tải và các cuộc hành quân, trú quân của bộ đội,... tạo điều kiện thuận lợi để Quân đội nhân dân tập trung lực lượng tiến công, tiêu diệt địch, giành thắng lợi trong từng trận đánh, từng chiến dịch và làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Hiệp định Geneve được ký kết, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Ở miền Bắc, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục kề vai, sát cánh đẩy mạnh các hoạt động phối hợp nắm chắc tình hình, đấu tranh đập tan âm mưu và kế hoạch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam; tăng cường hiệp đồng chiến đấu trấn áp, xử lý bọn phản cách mạng, lực lượng chống đối đường lối chủ trương của Đảng và chính sách của Chính phủ. Đặc biệt, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực phản động, nhất là việc hình thành các toán phỉ vũ trang ở các vùng rừng núi hiểm trở Tây Nghệ An, Tây Bắc và Đông Bắc, Công an nhân dân mà nòng cốt là lực lượng Công an nhân dân vũ trang đã hiệp đồng chặt chẽ với Quân đội nhân dân, dân quân du kích, tự vệ và các ban, bộ, ngành, đoàn thể tiến hành kết hợp giữa tuyên truyền, vận động với sử dụng biện pháp nghiệp vụ và tiến công quân sự vào sào huyệt của lực lượng phỉ, bắt và tiêu diệt hầu hết các toán phỉ và bọn đặc vụ Tưởng câu kết với chúng chống phá cách mạng4, góp phần ổn định tình hình trên các địa bàn. Đồng thời, bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan, tổ chức chính trị -  xã hội, các mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, cơ sở vật chất, kho tàng, công trình quân sự phục vụ chiến đấu, giữ vững an ninh, trật tự ở các địa phương và trên toàn miền Bắc.

Mối quan hệ đoàn kết, gắn bó, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa còn được thể hiện thông qua sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ đấu tranh chống gián điệp, biệt kích của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy, chính quyền các địa phương, lực lượng Công an nhân dân đã chủ động triển khai các mặt công tác nghiệp vụ điều tra, phát hiện và chủ động phối hợp, hiệp đồng chiến đấu với các đơn vị Quân đội, dân quân tự vệ nhanh chóng bao vây, truy lùng, tiêu diệt hoặc bắt gọn hầu hết các toán gián điệp, biệt kích của địch xâm nhập vào miền Bắc bằng cả đường không, đường biển, đường bộ qua giới tuyến, vô hiệu hóa các hoạt động tình báo, gián điệp, biệt kích của địch khi đánh ra miền Bắc. Chỉ tính riêng từ năm 1961 đến năm 1970, chúng ta đã ngăn chặn và bắt 78 toán gián điệp, biệt kích gồm 463 tên, thu hơn 10 tấn vũ khí, chất nổ, 30 tấn nhu yếu phẩm các loại, nhiều phương tiện thông tin liên lạc và các phương tiện chiến tranh khác5. Đặc biệt, sau khi thu hồi được loại thuốc nổ (C4) của bọn gián điệp biệt kích, Bộ Công an đã chỉ đạo lực lượng kỹ thuật phối hợp với các đơn vị Quân đội: Nhà máy Z41, Cục Quân khí và Binh chủng Công binh, nghiên cứu, chế tạo, thử nghiệm thành công mìn hẹn giờ, kíp mìn hóa học hẹn giờ các loại; sau đó chuyển giao công nghệ cho Bộ Quốc phòng sản xuất với số lượng lớn, cung cấp kịp thời cho chiến trường miền Nam, giúp lực lượng biệt động, đặc công của Quân giải phóng, an ninh miền Nam, trinh sát vũ trang và an ninh vũ trang miền Nam sử dụng tập kích, đánh phá các mục tiêu quân sự, như: Sân bay, bến cảng, Tổng nha Cảnh sát ngụy,... gây kinh hoàng và làm thiệt hại lớn cho địch.

Khi đế quốc Mỹ điên cuồng leo thang đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, lực lượng Công an nhân dân, nhất là Công an vũ trang đã trực tiếp phối hợp, hiệp đồng chiến đấu với lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ) vừa đánh trả quyết liệt máy bay địch, vừa bảo đảm sơ tán nhân dân, bảo vệ an toàn tài sản của Nhà nước và nhân dân. Trong Chiến dịch Phòng không 12 ngày, đêm (năm 1972), quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu, tạo nên thế trận phòng không liên hoàn, vững chắc, làm nên Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” vang động thế giới, góp phần quyết định làm thay đổi cục diện chiến tranh, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris (năm 1973), rút hết quân đội Mỹ và đồng minh ra khỏi Việt Nam. Trong đó, có công sức đóng góp to lớn và sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của Công an nhân dân, nhất là lực lượng Công an Hà Nội với các đơn vị Quân đội và dân quân tự vệ giữ vững trật tự trị an, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân đi sơ tán.

Trên chiến trường miền Nam, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, lực lượng Quân đội và Công an đã đồng cam, cộng khổ, bám đất, bám dân cùng nhau xây dựng cơ sở cách mạng; là lực lượng nòng cốt đẩy mạnh phát triển chiến tranh nhân dân rộng khắp, tạo lập thế trận tiến công địch bằng “hai chân, ba mũi”, trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn, đồng bằng và đô thị, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ: “Chiến tranh đơn phương” (1954 - 1960), “Chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965); “Chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968); “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973), tạo thế và lực, giành thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc toàn thắng Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Sự phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với lực lượng An ninh miền Nam là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, tô thắm thêm truyền thống đoàn kết, gắn bó, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Hòa bình lập lại, cả nước bước vào thời kỳ mới, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mối quan hệ đoàn kết, gắn bó, hiệp đồng giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục được phát huy và thúc đẩy lên tầm cao mới; hai lực lượng đã đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, thường xuyên trao đổi thông tin, nắm chắc tình hình trong nước, khu vực và trên thế giới; chủ động làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về các chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đồng thời là lực lượng nòng cốt, trực tiếp triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối đó. Hai lực lượng đã cùng với toàn dân thực hiện thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc và làm tròn nhiệm vụ quốc tế, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng; phối hợp bảo đảm an ninh, trật tự trên các địa bàn, tiến công triệt phá các tổ chức FULRO, bóc gỡ nhiều băng nhóm tội phạm, nhen nhóm phản động trong nước. Đồng thời, ngăn chặn, vô hiệu hóa âm mưu hoạt động xâm nhập phá hoại từ bên ngoài của các tổ chức phản động lưu vong, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Những năm gần đây, trước diễn biến mới, phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, Đảng, Nhà nước ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác phối hợp giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhấn mạnh: “Tăng cường quan hệ phối hợp giữa lực lượng Công an nhân dân với Quân đội nhân dân và các ngành, các địa phương trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Luật Quốc phòng năm 2018 xác định: Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội,... có trách nhiệm phối hợp với Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Điều 11, Luật Công an nhân dân năm 2018 quy định: Quân đội nhân dân, dân quân tự vệ có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và xây dựng Công an nhân dân. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 107/2003/QĐ-TTg, ngày 02/6/2003 về Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng; Nghị định số 77/2010/NĐ-CP, ngày 12/7/2010 về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng (nay là Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 05/9/2019 về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng),... tạo hành lang pháp lý, cơ sở quan trọng để phát triển mối quan hệ đoàn kết, gắn bó, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân ngày càng chặt chẽ, có nền nếp, toàn diện, đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn trong giai đoạn mới.

Lực lượng CAND và QĐND phối hợp tuần tra, canh gác bảo vệ vùng biển. (Ảnh: hvcsnd.edu.vn)

Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã thường xuyên phối hợp trao đổi thông tin, nắm chắc tình hình, đánh giá và dự báo sát, đúng các tình huống phức tạp có thể xảy ra, làm cơ sở để chủ động điều chỉnh, bổ sung quyết tâm, kế hoạch, phương án tác chiến phòng thủ bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định chiến lược, sách lược về quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đồng thời đề xuất biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề phức tạp nảy sinh, như: Tình hình liên quan đến Biển Đông, bảo đảm an ninh, trật tự khu vực biên giới, biển, đảo và nội địa, nhất là trên các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ6. Cùng với đó, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã tích cực tham mưu cho Hội đồng Giáo dục quốc phòng, an ninh các cấp và là lực lượng nòng cốt trực tiếp thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng theo quy định, đạt được hiệu quả tích cực. Từ năm 2013 đến năm 2019, cả nước có gần 2,7 triệu lượt cán bộ thuộc các đối tượng được bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh7. Đặc biệt, Cơ quan Thường trực Hội đồng Giáo dục quốc phòng và an ninh Trung ương đã phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Tôn giáo Chính phủ, Hội đồng Giáo dục quốc phòng và an ninh của các Quân khu và Thành phố Hà Nội tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho hơn 300 chủng sinh thuộc Đại chủng viện Thánh Giuse Thành phố Hồ Chí Minh và Đại chủng viện Thánh Quý Cần Thơ; hơn 120 chức sắc các tôn giáo là Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của 12 tỉnh, thành phố phía Nam; 320 tăng, ni sinh của Học viện Phật giáo Việt Nam và gần 720 chức sắc, nhà tu hành, đại diện các tổ chức tôn giáo trên địa bàn. Công tác giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên được triển khai đồng bộ từ bậc trung học phổ thông đến đại học. Công tác phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân được đẩy mạnh, nội dung, hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với đặc điểm địa bàn, dân cư. Kết quả đó đã góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Để tạo nền tảng bảo vệ vững chắc Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ lúc nước chưa nguy”, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, trực tiếp là cơ quan quân sự và cơ quan công an ở địa phương đã chủ động phối hợp chặt chẽ, cùng với các ban, ngành, đoàn thể tham mưu với cấp ủy, chính quyền cùng cấp đẩy mạnh việc xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững mạnh toàn diện cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận. Xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, bảo đảm đủ sức tự xử lý thắng lợi các tình huống về quốc phòng, an ninh xảy ra trên địa bàn; phòng, chống có hiệu quả âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, tạo sức mạnh bên trong, góp phần ngăn ngừa và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược. Đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, ngoài việc phối hợp thực hiện tốt chức năng thẩm định các dự án kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân còn chủ động phối hợp bảo đảm an ninh kinh tế trong xây dựng cộng đồng ASEAN, đàm phán gia nhập các tổ chức, diễn đàn khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương. Chủ động đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai quyết liệt các phương án, kế hoạch bảo đảm an ninh, trật tự tại các khu kinh tế, khu công nghiệp, góp phần tạo môi trường xã hội, môi trường đầu tư an toàn, thuận lợi xã hội của đất nước.

Thực hiện chức năng đội quân công tác của Đảng, Quân đội nhân dân đã phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là đối với đồng bào các dân tộc trên các địa bàn chiến lược, tuyến biên giới, biển, đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo; giúp đỡ nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn8, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh. Đồng thời, tổ chức xây dựng, nhân rộng các mô hình tiên tiến, như: “Liên kết xây dựng vùng giáp ranh an toàn về an ninh, trật tự”, “Dòng họ, tộc họ tự quản về an ninh, trật tự”, “Tiếng kẻng vùng biên”, ‘ Xóm chài bình yên”, “Cụm tàu thuyền an toàn”, v.v. Qua đó, không chỉ góp phân nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin của nhân dân với cấp ủy, chính quyền địa phương và sự gắn kết chặt chẽ giữa người dân với cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân, mà còn giúp nhân dân không ngừng nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, xây dựng “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc, phát huy sức mạnh tổng hợp đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh biên giới quốc gia.

Đặc biệt, trước diễn biến rất phức tạp của đại dịch Covid-19, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là những lực lượng xung kích, đi đầu trên mặt trận phòng, chống dịch bệnh, góp phần bảo vệ sức khỏe và cuộc sống bình yên của nhân dân. Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân, dân quân tự vệ đã “đi từng ngõ, gõ từng nhà”, tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận thức về dịch bệnh Covid-19; cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân đã phát huy phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, chủ động nhường doanh trại để lập khu cách ly và tận tình chăm sóc người dân nghi bị lây nhiễm dịch bệnh, không để xảy ra lây nhiễm chéo trong khu cách ly; ngoài ra, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng thường xuyên ngày, đêm bám trụ địa bàn, kiểm soát chặt chẽ việc đi lại của người dân qua đường mòn, lối mở và ngăn chặn các hoạt động buôn bán ma túy, hàng giả qua biên giới; việc thành lập tổ, đội liên ngành công an, quân sự để duy trì an ninh trật tự tại các chốt, trạm kiểm dịch, tạo điều kiện cho ngành y tế thực hiện tốt chức năng phòng, chống dịch bệnh hiệu quả. Tất cả những hoạt động đó tưởng như độc lập, song đều thực hiện theo một kế hoạch phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa hai lực lượng, với mục đích chung “vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân mà phục vụ”.

Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, bên cạnh những thuận lợi là chủ yếu, đất nước ta tiếp tục phải đối phó và giải quyết những thách thức không nhỏ. Đáng chú ý là, các thế lực thù địch vẫn ráo riết đẩy mạnh thực hiện nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt chống phá quyết liệt sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, tập trung phá hoại trước thềm đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Đồng thời, thúc đẩy mưu đồ “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa Công an với Quân đội, làm cho lực lượng vũ trang xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, không làm tròn vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Tình hình chính trị, trật tự xã hội, an ninh thông tin, an ninh mạng, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh,… tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định.

Hơn lúc nào hết, lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân phải không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, nhất là bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng, nội dung, nguyên tắc quan hệ phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh giữa hai lực lượng. Trong đó, cần tập trung phối hợp nghiên cứu, dự báo chính xác âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá mới của các thế lực phản động, thù địch, các phần tử khủng bố; nắm vững về đối tượng, đối tác; tiếp tục  quán triệt, nắm chắc tình hình, làm tốt công tác tham mưu, chỉ đạo chiến lược, đổi mới nội dung, phương thức phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng theo Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 05/9/2019 của Chính phủ, để không ngừng phát triển mối quan hệ đoàn kết, gắn bó, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

Kế tục xứng đáng và phát huy truyền thống đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, có hiệu quả giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân tiếp tục sát cánh cùng Công an nhân dân, phấn đấu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, đội quân chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam “quân cường, nước mạnh”, ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn.

Đại tướng NGÔ XUÂN LỊCH, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương
B
ộ trưởng Bộ Quốc phòng
_______________       

1 - Hồ Chí Minh -Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG,  H. 2011, tr. 153.

2 - Cùng với việc ngày 12/7/1946, Nha Công an Trung ương khám phá vụ án phản cách mạng ở số 7 Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội); Công an nhân dân đã phối hợp với Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ đồng loạt tấn công, bóc gỡ 40 trụ sở Quốc dân Đảng, bắt trên 100 tên phản động, đập tan âm mưu đảo chính, lật đổ chính quyền cách mạng của thực dân Pháp và bọn phản động.

3 - Hồ Chí Minh -Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG,  H. 2011, tr. 534.

4 - Điển hình như: Chiến dịch tiễu phỉ ở Đồng Văn, Hà Giang, ta bắt, làm tan rã hơn 1.000 tên; trong đó, có 188 tên phản động Tưởng Giới Thạch, thu 355 súng các loại. Vụ trấn áp bọn phản cách mạng gây bạo loạn ở Mường Khương, Lào Cai (năm 1960). Vụ nổi phỉ ở khu vực Đông Bắc (năm 1961). Vụ trấn áp cuộc bạo loạn lớn ở Kỳ Sơn, Nghệ An (năm 1964).

5 - Công an nhân dân - Lịch sử biên niên 1954 - 1975, Nxb CAND, H. 1997, tr. 174.

6 - Công an và Quân đội đã phối hợp ngăn chặn, bóc gỡ và triệt phá nhiều vụ phức tạp, điển hình, như: bạo loạn ở Tây Nguyên (năm 2001, 2004); phá rối an ninh ở Mường Nhé, Điện Biên (tháng 5/2011); lợi dụng biểu tình đập phá gây rối trật tự công cộng ở các tỉnh: Bình Dương, Đồng Nai, Hà Tĩnh và Thành phố Hồ Chí Minh (tháng 5/2014); ngăn chặn hiệu quả hoạt động của các tàu, thuyền nước ngoài vi phạm trái phép vùng biển Việt Nam; tham gia phân định cắm mốc biên giới trên bộ, v.v.

7 - Trong đó, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho đối tượng theo Thông tư số 38/2014/TT-BQP và Thông tư số 24/2014/TT-BQP của Bộ Quốc phòng là hơn 2.678.000 người; Thông tư số 05/2015/TT-BCA của Bộ Công an là hơn 72.000 người.

8 - Chỉ tính riêng từ tháng 01/2014 đến tháng 9/2019, lực lượng vũ trang đã tham gia tìm kiếm cứu nạn: 8.087 vụ (trong đó, thiên tai: 1.437 vụ, tìm kiếm cứu nạn trên biển, trên sông: 1.997 vụ); cháy nổ, sập, sự cố hóa chất: 2.967 vụ; cháy rừng: 1.671 vụ; sự cố tràn dầu: 16 vụ. Điển hình như: Ứng cứu sập hầm Nhà máy Thủy điện Đa Dâng (năm 2014); ứng phó đợt mưa lũ lịch sử tại Quảng Ninh và các tỉnh miền núi phía Bắc (năm 2015); ứng phó lũ quét, sạt lở đất đặc biệt nghiêm trọng trên diện rộng tại các tỉnh vùng Tây Bắc và các tỉnh: Quảng Nam, Khánh Hòa, Thanh Hóa (năm 2017, 2018); ứng phó cháy rừng nghiêm trọng ở các tỉnh miền Trung (năm 2019); sự cố hóa chất do cháy tại Công ty Cổ phần Bóng đèn - Phích nước Rạng Đông, Hà Nội (2019), v.v.

Ý kiến bạn đọc (0)

Phát huy vai trò của cơ quan lý luận hàng đầu Quân đội trong phát triển lý luận quân sự cách mạng thời kỳ mới
Là ngọn cờ lý luận quân sự, chính trị của Đảng trong Quân đội, suốt 75 năm qua, Tạp chí Quốc phòng toàn dân luôn khẳng định rõ vai trò, vị thế của mình, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Phát huy vai trò, vị thế đó và trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Tạp chí tiếp tục nỗ lực, phấn đấu nâng cao chất lượng nghiên cứu, tuyên truyền, góp phần phát triển nền lý luận quân sự cách mạng của Đảng.