Sự kiện lịch sử Những ngày kỷ niệm lớn

QPTD -Thứ Tư, 16/03/2016, 15:00 (GMT+7)
Công xã Pa-ri với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Đã 145 năm trôi qua, thế giới có biết bao đổi thay, nhưng tinh thần bất diệt, những bài học kinh nghiệm mà Công xã Pa-ri (18-3-1871 – 28-5-1871) để lại, vẫn còn nguyên giá trị. Nó không chỉ làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, mà cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự ra đời của Công xã Pa-ri là do những mâu thuẫn gay gắt, không thể điều hòa giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Song, nguyên nhân trực tiếp là do thất bại nặng nề của nước Pháp trong cuộc chiến tranh với nước Phổ (1870 - 1871), cùng với chính sách đối ngoại đầu hàng và chính sách đối nội phản động của Chính phủ Pháp do A. Chi-e1 cầm đầu, làm cho phong trào đấu tranh của nhân dân và các lực lượng tiến bộ Pháp ngày càng trở nên mạnh mẽ, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của giai cấp công nhân lật đổ chính phủ phản động, giành chính quyền ở Thủ đô Pa-ri, ngày 18-3-1871.

Ngay sau khi thành lập, Công xã Pa-ri đã thi hành nhiều chính sách tiến bộ, được giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhiều nơi trên thế giới đồng tình, ủng hộ, noi theo. Điều đó đã làm cho các loại kẻ thù vô cùng tức tối, chúng câu kết và tìm mọi cách để lật đổ Công xã, xóa bỏ mọi thành quả cách mạng. Điển hình là, ngày 10-5-1871, quân Phổ phóng thích hơn 10 vạn tù binh của Pháp và vũ trang cho lực lượng này quay trở lại đàn áp Công xã Pa-ri. Ngày 20-5-1871, chính phủ phản động do A. Chi-e cầm đầu câu kết với quân đội Phổ tổng tấn công đánh chiếm lại thành phố Pa-ri, v.v. Các chiến sĩ của Công xã tuy đã chiến đấu với tinh thần quả cảm để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, song trước sự chênh lệch về so sánh lực lượng, tới ngày 28-5-1871, Công xã hoàn toàn thất bại, gần 30.000 người đã bị kẻ thù tàn sát, hơn 40.000 người bị bắt và trong số đó có nhiều người về sau cũng bị chính phủ phản động xử tử. Hy sinh trên chiến lũy của Công xã Pa-ri còn có nhiều thành viên của Quốc tế thứ nhất, nhiều chiến sĩ cách mạng của một số nước châu Âu. Công xã là sự kiện chính trị quan trọng, thu hút sự quan tâm của dư luận lúc bấy giờ; trở thành tiếng kèn lệnh chiến đấu của các chiến sĩ cộng sản và nhân dân lao động, kêu gọi “vô sản thế giới đoàn kết lại”, lật đổ chế độ áp bức bóc lột, bất công, đem sức ta mà giải phóng cho ta.

Nhằm rút ra những bài học, bổ sung, phát triển lý luận để hướng dẫn giai cấp công nhân đấu tranh thắng lợi, C. Mác đã tổng kết Công xã Pa-ri trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”. Ông khẳng định: Công xã là một nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân, là hình thức chính trị của sự giải phóng xã hội mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động tạo ra. Đặc biệt, C. Mác đã chỉ ra nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của Công xã, chủ yếu là: giai cấp công nhân chưa trưởng thành về chính trị, chưa có một chính đảng được vũ trang bằng học thuyết đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản, do đó thiếu một cương lĩnh chính trị để thực hiện những cải cách mang tính xã hội chủ nghĩa. Thành phần chính của Công xã không thuần nhất, thiếu sự liên minh chiến đấu giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân; trong nội bộ Công xã có sự bất đồng do có cả những đảng viên cấp tiến tư sản. Điều quan trọng, Công xã không tiến hành quốc hữu hóa ngân hàng từ tay giai cấp tư sản; không kiên quyết tiến công liên tục kẻ thù, để chúng có thời gian củng cố lực lượng và quay lại phản kích, v.v.

Từ kinh nghiệm trên, V.I. Lê-nin đã có sự chuẩn bị kỹ cho giai cấp công nhân Nga, nhờ đó, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917, lập nên nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và đứng vững trong cuộc chiến tranh chống bọn phản cách mạng trong nước cùng sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc (1918 - 1920). Từ đó, Người đã nêu luận điểm quan trọng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”2.

Đối với giai cấp công nhân Việt Nam, đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, giành chính quyền, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới đạt nhiều thành tựu to lớn. Nhờ đó, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến rất phức tạp, khó lường. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại; nhất là các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chỉ có như vậy, những thành quả cách mạng mới được phát huy, thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thấm nhuần sâu sắc bài học kinh nghiệm của Công xã Pa-ri và lời dạy của V.I. Lê-nin, cần thực hiện tốt mấy vấn đề chủ yếu sau:

Một là, đẩy mạnh xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đây là bài học lớn rút ra từ sự thất bại của Công xã Pa-ri. Giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử khi thành lập được chính đảng chân chính của mình để tổ chức, lãnh đạo giai cấp và nhân dân lao động đấu tranh. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, thực tiễn đã khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta. Tuy vậy, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên được xây dựng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong, bộ tham mưu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Theo tinh thần Đại hội XII, mục tiêu xây dựng Đảng hiện nay là trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Xây dựng Đảng về đạo đức là điểm mới, xuất phát từ vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội, nhất là từ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên, làm ảnh hưởng đến uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, để đạt được mục tiêu đó, trong mọi hoàn cảnh, Đảng cần phải kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, nhằm tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, v.v. Nội dung quan trọng hiện nay là, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, v.v. Qua đó, xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của Đảng.

Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự của dân, do dân, vì dân. Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng; là công cụ để giai cấp công nhân thực hiện cải tạo xã hội theo đường lối, mục tiêu xác định. Hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã từng bước được xây dựng, phát triển, củng cố và hoàn thiện, thật sự là công cụ quyền lực của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích và nguyện vọng của toàn dân tộc. Trong công cuộc đổi mới đất nước, quan điểm, tư tưởng của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền được nhận thức ngày càng đầy đủ, đổi mới và phát triển. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trước hết phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của xã hội. Đồng thời, phải có những biện pháp nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật phòng, chống tham nhũng gắn với chống lãng phí, quan liêu, chống buôn lậu trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị.

Ba là, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn xây dựng và bảo vệ Nhà nước Xô-viết trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền và bài học Công xã Pa-ri, V.I. Lê-nin đặc biệt quan tâm đến tăng cường sức mạnh quốc phòng, xây dựng quân đội hùng mạnh, làm nòng cốt bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “Hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của nước ta và của Hồng quân ta như chăm lo đến con ngươi trong mắt mình, và hãy nhớ rằng chúng ta không được phép lơ là một giây phút nào trong việc bảo vệ công nhân và nông dân của ta và bảo vệ những thành quả của họ”3.

Kế thừa kinh nghiệm đó, chúng ta cần chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, làm nòng cốt trong tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; bảo đảm Quân đội và Công an thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Các cấp, ngành phải quán triệt, thực hiện hiệu quả Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đẩy mạnh giáo dục quốc phòng và an ninh nhằm phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức, trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của các tầng lớp nhân dân. Cùng với đó, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. Đồng thời, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm cơ sở quan trọng để thực hiện “tự bảo vệ” Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Bốn là, không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực và nguồn lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài học kinh nghiệm trong lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, xây dựng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ tạo bức tường thành vững chãi nhất để bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ và thành quả cách mạng; đồng thời, là cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc để đánh thắng kẻ thù xâm lược. Đây cũng là bài học xương máu của Công xã Pa-ri, do thiếu liên minh với các tầng lớp nhân dân nên các chiến sĩ cộng sản của Công xã tuy chiến đấu anh dũng, song vẫn thất bại.

Hiện nay, các thế lực thù địch đang dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Trong đó, lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam. Đồng thời, chăm lo thực hiện hiệu quả các chính sách: dân tộc, tôn giáo; chính sách đối với các tầng lớp nhân dân,… là nhân tố quan trọng cấu thành sự bền vững của “thế trận lòng dân”, là phương thức hữu hiệu để nâng cao khả năng “tự bảo vệ”, vô hiệu hóa mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch; giữ vững ổn định, môi trường hòa bình để phát triển đất nước.

Đại tá, ThS. NGUYỄN ĐỨC THẮNG, Viện Khoa học Xã hội và nhân văn Quân sự, Bộ Quốc phòng
______
___________ 

1 - A. Chi-e (Louis Adolphe Thiers) (1797 - 1877) nguyên là một luật sư, ký giả và sử gia, bắt đầu hoạt động chính trị từ thời Phục hưng (1815- 1830). Sau cách mạng 04-9-1870, A. Chi-e có ảnh hưởng lớn tới chính sách của Chính phủ Vệ quốc. A. Chi-e là một người xảo quyệt, tàn nhẫn, tham lam, không từ một thủ đoạn nào để thăng quan, phát tài, đồng thời là kẻ tử thù của dân chủ, giai cấp công nhân. C. Mác đã tóm tắt cả “tài đức” của A. Chi-e trong một câu: “Chi-e chỉ trung kiên trong sự tham lam của cải và trong sự thù ghét những người làm ra của cải”.

2 - V.I. Lê-nin - Toàn tập, Tập 37, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 145.

3 - Sđd, Tập 44, tr. 368 - 369.

Ý kiến bạn đọc (0)

Thư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi cán bộ, chiến sĩ Dân quân tự vệ cả nước
Tôi nhiệt liệt biểu dương, khen ngợi những thành tích và sự tiến bộ, trưởng thành của Dân quân tự vệ trong 90 năm qua. Mong rằng, trong giai đoạn cách mạng mới, các đồng chí tiếp tục phát huy thành tích đã đạt được và truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao;...