Sự kiện lịch sử Những ngày kỷ niệm lớn

QPTD -Thứ Ba, 07/05/2019, 22:02 (GMT+7)
Chiến thắng Điện Biên Phủ - thắng lợi của thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đã làm thất bại hoàn toàn kế hoạch Na-va, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ công nhận nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Căm-pu-chia, chấm dứt chiến tranh trên bán đảo Đông Dương. Thắng lợi đó là sự kết tinh của nhiều nhân tố, trước hết là, sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chiến tranh nhân dân, thế trận chiến tranh nhân dân độc đáo, sáng tạo. Nổi bật ở một số nội dung cơ bản như sau:

1. Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng

Tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, Đảng ta xác định đây là cuộc kháng chiến: “toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh”. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “…bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc hễ là người Việt Nam thì đều phải đứng lên đánh đuổi giặc Pháp, cứu Tổ quốc”1. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, toàn dân tộc ta đã nhất tề đứng lên thực hiện “toàn dân kháng chiến”, “toàn diện kháng chiến”, “trường kỳ kháng chiến”, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, cốt lõi là “thế trận lòng dân” vững chắc, phát huy sức mạnh tổng hợp quyết giành độc lập, tự do cho dân tộc. Với tinh thần đó, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, cùng với các lực lượng chiến đấu, ta đã huy động được sức người, sức của vô cùng to lớn từ vùng tự do (Thanh - Nghệ - Tĩnh, Việt Bắc,...) đến vùng bị địch tạm chiếm để chi viện cho Chiến dịch. Với phương châm, “tất cả cho mặt trận”, “tất cả để chiến thắng”, các địa phương đã cung cấp 23.000 tấn gạo, 266 tấn muối, gần 2.000 tấn thực phẩm, cùng gần 21.000 chiếc xe đạp thồ, gần 1.000 con ngựa thồ, hơn 3.000 chiếc thuyền và hơn 261.400 lượt dân công với 12 triệu ngày công2 phục vụ Chiến dịch. Đây thực sự là sức mạnh của chiến tranh nhân dân, hậu cần toàn dân bắt nguồn từ đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng; qua đó, giải quyết được vấn đề “khó khăn nhất” đó là công tác hậu cần, bảo đảm cho Chiến dịch giành thắng lợi.

2. Chủ động tạo lực, lập thế, thực hiện mưu kế chiến lược “căng địch ra mà đánh, trói địch lại mà diệt”, tiến hành thắng lợi trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.

Để đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, từ cuối năm 1949 đến cuối năm 1952, ta tích cực xây dựng, phát triển các đại đoàn chủ lực (304, 308, 312, 316, 320, 325 và Đại đoàn Công - Pháo 351), chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, đẩy mạnh chiến tranh du kích tiến lên vận động chiến, nhằm thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân kết hợp tác chiến của các đại đoàn chủ lực cơ động với tác chiến rộng khắp của lực lượng vũ trang địa phương, dân quân du kích, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân “thiên la, địa võng” trên phạm vi cả nước và trên từng địa bàn. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta giành những thắng lợi quan trọng trên các chiến trường, nổi bật là Chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950.

Mưu kế “căng địch ra mà đánh - trói địch lại mà diệt” đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ Tổng Tư lệnh triển khai rất thành công trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của thế và lực trên khắp các chiến trường. Từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng về địch, Bộ Tổng Tư lệnh triển khai lực lượng trên các chiến trường chủ yếu, cụ thể: Trên chiến trường Tây Bắc và Thượng Lào, bố trí Đại đoàn 316 và Trung đoàn 148; chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, ta bố trí 2-3 đại đoàn và và lực lượng trong vùng địch hậu; chiến trường Trung, Hạ Lào và Đông Bắc Căm-pu-chia, bố trí 2-3 đại đoàn và bộ đội địa phương; chiến trường Tây Nguyên ta bố trí các trung đoàn chủ lực Liên khu 5 và lực lượng vũ trang địa phương. Từ thế bố trí lực lượng ban đầu, ta đã tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân kìm giữ địch trên các chiến trường trọng điểm để tạo ra bước chuyển chiến lược mới, phá vỡ một mảng quan trọng hậu phương và phá thế tập trung khối chủ lực, làm phân tán dàn mỏng lực lượng cơ động chiến lược của địch. Vì thế, hơn 80% lực lượng cơ động của quân Pháp đã bị phân chia ra các chiến trường, tạo thế trận có lợi để ta tiêu diệt địch ở chiến trường Điện Biên Phủ.

Nghệ thuật “căng địch ra mà đánh” triển khai thế trận chiến tranh nhân dân trên khắp các chiến trường tiêu diệt, tiêu hao địch. Khi Bộ Tổng Tư lệnh điều động lực lượng chủ lực của ta đến Tây Bắc và Trung Lào, Na-va đã vội vàng cho lực lượng cơ động chiến lược tăng cường cho Điện Biên Phủ và Trung Lào để vừa ngăn chặn ta tiến quân lên Tây Bắc vừa bảo vệ vùng Thượng Lào. Từ động thái trên, sau khi phân tích kỹ tình hình, Bộ Tổng Tư lệnh nhận định: ta có thể giam chân các lực lượng cơ động của địch ở các chiến trường lựa chọn và chọn mục tiêu Điện Biên Phủ để mở chiến dịch. Thực hiện ý định này, ta đã tiến hành nghi binh và tác chiến tạo thế chiến dịch; sử dụng lực lượng tiến công Lai Châu, giải phóng thị xã và toàn tỉnh Lai Châu, cắt đứt trục đường huyết mạch Lai Châu - Điện Biên Phủ, bao vây Nam Điện Biên Phủ. Đồng thời, phối hợp với Pa-thét Lào tiến công Trung Lào, giải phóng Khăm Muộn và thị xã Thà khẹc. Trước tình hình đó, Na-va lại phải vội vã điều động 6 tiểu đoàn cơ động chiến lược ở chiến trường Bắc Bộ lên Trung Lào, tập trung 13 tiểu đoàn ở Sê-nô thành tập đoàn cứ điểm lớn ở đây. Lực lượng ta phát triển chiến đấu về hướng Đường 9 và Hạ Lào, giải phóng thị xã A-ta-pư (Attapeu) và vùng cao nguyên Bô-lô-ven, truy kích địch ở Pắc-xế, buộc địch tăng viện cho khu vực này.

 Trên chiến trường Liên khu 5, ta chỉ sử dụng một lực lượng thích hợp ở hướng chính diện để nghi binh, kìm chân địch, lực lượng chủ yếu cơ động về Bắc Tây Nguyên, tiến công giải phóng Kon Tum và một phần tỉnh Gia Lai, phát triển chiến đấu xuống Đường 19, buộc địch phải bỏ cuộc hành binh Át-lăng ở Phú Yên đưa phần lớn lực lượng về ứng cứu cho Tây Nguyên. Ở Thượng Lào, liên quân Việt - Lào mở cuộc tiến công đập vỡ phòng tuyến của địch vùng hạ lưu sông Nậm Hu ở Thượng Lào (01-02-1954), diệt 3 tiểu đoàn và 11 đại đội địch với khoảng 2.200 tên, phát triển chiến đấu lên hướng Bắc, giải phóng một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa Lỳ với diện tích khoảng 35.000km2 và hơn 300.000 dân, nối liền Sầm Nưa của Lào với vùng Tây Bắc của ta, tiến sát và trực tiếp uy hiếp Luông Pha băng, buộc Na-va phải điều động tăng cường lực lượng lên khu vực này, hình thành cứ điểm mới ở Luông Pha băng và Mường Sài. Ta đã mở rộng chiến trường hậu phương và chiến trường sau lưng địch ở cả Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ tạo ra thế trận vững chắc trên các chiến trường tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến ở Việt Nam và các nước Đông Dương phát triển. Trước sức tiến công của ta, Na-va lại vội vàng điều động hai tiểu đoàn tăng viện cho Mường Sài. Trên chiến trường Bắc Bộ (tháng 10-1953), địch mở cuộc hành quân Hải Âu, đánh ra Nho Quan, đánh vào Thanh Hóa, uy hiếp vùng tự do Phú Thọ, Hòa Bình. Sau khi đánh lui cuộc hành quân này, ta thực hiện Kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954, phá tan kế hoạch Na-va của địch.

Nghệ thuật lập thế trận chiến tranh nhân dân “trói địch lại mà diệt”. Tại Điện Biên Phủ ta tiến hành bao vây, tiêu hao và kiềm chế địch, chuẩn bị mọi mặt cho trận quyết chiến chiến lược. Địch phải tăng cường lực lượng ở Điện Biên Phủ lên đến 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay với  quân số lên đến 11.800 tên, phần lớn là lính Âu Phi tinh nhuệ (trong quá trình chiến dịch được tăng viện 4 tiểu đoàn và 2 đại đội dù), tổ chức phòng ngự thành 3 phân khu, 8 trung tâm đề kháng, 49 cứ điểm được trang bị hỏa lực mạnh, 2 căn cứ hỏa lực và 2 sân bay ở Mường Thanh, Hồng Cúm. Ý định của địch là xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh - “một quả đấm thép mạnh” có thể đập vỡ các đại đoàn chủ lực của ta, điều chưa từng có ở chiến trường Đông Dương. Ngoài ra, địch còn có lực lượng cơ động chiến lược (84 tiểu đoàn) để tổ chức các cuộc hành quân nhằm tiêu diệt, tiêu hao lực lượng chủ lực của ta, đánh chiếm đất đai, mở rộng các vùng chiếm đóng.

Để tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân đánh thắng địch trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, ta đã có nhiều sáng tạo trong việc lợi dụng thế có lợi của địa hình để bày trận. Ở Điện Biên Phủ, địch có lực lượng mạnh và tổ chức phòng ngự chặt chẽ, nhưng chúng gặp một số bất lợi về mặt địa hình; ta lợi dụng địa hình vùng núi cao bao quanh lòng chảo Điện Biên Phủ để xây dựng thế trận, khống chế, bao vây chặt quân địch; ta cũng đã giải quyết thành công vấn đề nghi binh, lừa địch, giữ bí mật ý định, hành động tác chiến, nhất là chủ động cắt đứt nguồn tăng viện, tiếp tế bằng đường không của địch, triệt phá hậu cần địch… đó là những thành công lớn và cũng là nghệ thuật nổi bật lập thế trận chiến tranh nhân dân của ta trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.

3. Lập thế trận bao vây, chia cắt, chớp đúng thời cơ, thực hiện tiến công từ nhiều hướng, ra đòn quyết định giành thắng lợi.

Căn cứ vào tình hình địch, sau khi khảo sát chiến trường, phân tích kỹ lưỡng tình hình các mặt, ngày 26-01, Bộ Tổng Tư lệnh đã quyết định chuyển phương án tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Các đơn vị thực hiện xây dựng hệ thống chiến hào, nối liền các trận địa với nhau, thực hiện “vây, lấn, tấn, diệt”, từng bước cô lập, xiết chặt vòng vây, chia cắt thế liên hoàn của các cụm cứ điểm, các phân khu trong toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch. Ta sử dụng lực lượng, vũ khí trang bị tập trung ưu thế, vận dụng phương pháp tác chiến, thủ đoạn chiến đấu hiểm hóc, linh hoạt, phát huy uy lực vũ khí, sở trường của bộ đội, thực hiện đánh bóc vỏ các cứ điểm vòng ngoài, cô lập và đánh chiếm và làm chủ phân khu phía Bắc, đánh trả không quân, pháo binh địch. Tiếp tục xiết chặt vòng vây, thực hiện từng bước chia cắt phân khu trung tâm và phân khu phía Nam, tiến tới đánh chiếm phân khu phía Đông, khống chế sân bay, hạn chế tiếp viện của không quân địch, khoét sâu chỗ yếu của địch. Đánh chiếm đồi A1, chọc thủng phân khu phía Nam, chớp đúng thời cơ thực hiện tiến công từ nhiều hướng, ra đòn quyết định giành thắng lợi.

Nghệ thuật lập thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo sức mạnh vô song của dân tộc, giành thắng lợi vẻ vang trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dung sáng tạo vào việc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN LƯỢNG, Trưởng phòng Quản lý khoa học
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

_______________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 480.

2 - Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam - Tập 1, Nxb. QĐND, H. 1993, tr. 305, 306.

Ý kiến bạn đọc (0)

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chúc mừng các nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội
Nhân dịp kỷ niệm 42 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2024), Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi thư chúc mừng các thế hệ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đã và đang công tác trong Quân đội. Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử trân trọng giới thiệu toàn văn Bức thư.