Sự kiện lịch sử Những ngày kỷ niệm lớn

QPTD -Thứ Hai, 06/11/2017, 09:42 (GMT+7)
Cách mạng Tháng Mười Nga và tầm ảnh hưởng đối với cách mạng Việt Nam

Cách mạng Tháng Mười và sự phát triển, tính ưu việt, sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa Xô viết là thực tế đầy tính thuyết phục, không thể phủ nhận. Đối với nước Nga và các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười để lại những bài học có ý nghĩa sâu sắc về lý luận và thực tiễn.

Cách mạng Tháng Mười Nga (07-11-1917) đã giải phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động nước Nga khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công để tiến lên xây dựng một xã hội mà con người được sống trong tự do, công bằng và hạnh phúc. Cuộc cách mạng đó cũng đã cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa bị áp bức đứng lên đấu tranh tự giải phóng giành các quyền dân tộc cơ bản và quyền con người. Với tầm vóc và ý nghĩa lớn lao đó, Cách mạng Tháng Mười Nga là một trong những mốc lịch sử vĩ đại và vẻ vang nhất trong lịch sử loài người. Dù Cách mạng Nga và Liên Xô trong 100 năm qua phải trải qua những thách thức, thăng trầm, song đó vẫn là cuộc cách mạng đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, từng bước hiện thực hóa những tư tưởng, luận điểm của C.Mác, Ph.Ăng-ghen và Lê-nin vĩ đại.

Đối với con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười Nga đã có ảnh hưởng rất sớm. Luận cương của Lê-nin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giúp Nguyễn Ái Quốc sáng tỏ nhận thức và niềm tin đối với con đường cách mạng Việt Nam. Đó là cơ sở rất quan trọng để Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những điều kiện để thành lập Đảng. Mùa Xuân năm 1930, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng Cương lĩnh đấu tranh cách mạng giành độc lập cho dân tộc và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, Đảng đã phát triển hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc với tinh thần tự lực, tự cường quyết đem sức ta tự giải phóng cho ta đã làm nên thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Cuộc cách mạng đó đã phát triển sáng tạo những kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười về đấu tranh giành và giữ chính quyền, về khởi nghĩa toàn dân, vũ trang toàn dân, về tình thế và thời cơ cách mạng, về vai trò lãnh đạo của Đảng ở thời điểm có tính bước ngoặt của lịch sử. Trên cơ sở nội lực, thực lực cách mạng được phát huy cao nhất, đồng thời tranh thủ cơ hội thuận lợi do chiến thắng của Liên Xô và Đồng minh đối với chủ nghĩa phát xít, quân phiệt, Cách mạng Tháng Tám đã nhanh chóng giành thắng lợi.

Ngay sau khi ra đời, Nhà nước cách mạng non trẻ đã phải đương đầu với những thách thức nặng nề. Cả dân tộc Việt Nam phải tiến hành kháng chiến kéo dài 30 năm (1945-1975) chống sự xâm lược của những thế lực thực dân, đế quốc để giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ đó, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; các lực lượng dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Những kinh nghiệm quý của nước Nga Xô viết về chống chiến tranh can thiệp của các nước đế quốc (1918-1920), trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại (1941-1945) là tấm gương và có ý nghĩa sâu sắc đối với các cuộc kháng chiến cứu nước và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam.

Cách mạng Tháng Mười Nga đã khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam đã và đang phát triển trên con đường đó. Đó là sự lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại, được bắt đầu từ năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Năm 1954, miền Bắc Việt Nam được giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngày 30-4-1975, miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng học tập kinh nghiệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đồng thời chú trọng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với đặc điểm của Việt Nam, tìm ra quy luật riêng của Việt Nam. Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô về nhiều mặt, nhất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, như: công trình Thủy điện Hòa Bình, Liên doanh dầu khí Việt-Xô, cầu Thăng Long, v.v.

Những năm 80 của thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng nhất là về kinh tế - xã hội. Yêu cầu khách quan đặt ra phải cải tổ, cải cách, đổi mới từ tư duy lý luận đến cơ chế, chính sách cụ thể để tiếp tục phát triển trên con đường xã hội chủ nghĩa. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô đã không thành công dẫn đến sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã năm 1991. Vượt qua thách thức hiểm nghèo đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện có hiệu quả đường lối đổi mới do Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đề ra, kiên định phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Quá trình đổi mới, Việt Nam luôn biết ơn, giữ gìn quan hệ hữu nghị truyền thống với nhân dân Liên Xô trước đây, nhân dân Nga và các nước SNG ngày nay, không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ và khẳng định: “Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển”1.

Từ Cách mạng Tháng Mười Nga cách đây 100 năm đến thực tiễn cách mạng Việt Nam có thể nhận thức rõ những bài học rất quan trọng.

Một là, phải chú trọng xây dựng một Đảng chân chính cách mạng và bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Mười là Đảng của những người Bôn-sê-vích Nga do Lê-nin đứng đầu. Đó là một Đảng mạnh cả về trình độ lý luận và khả năng tổ chức thực tiễn. Sự thống nhất về ý chí và hành động thể hiện rõ trong thư của Lê-nin gửi cho các ủy viên Trung ương tối ngày 06-11-1917. Với sự quyết đoán đó, khởi nghĩa đã diễn ra đúng thời cơ, nhanh chóng giành thắng lợi trong một đêm, làm thất bại ý đồ của kẻ cơ hội trong Đảng đã cố ý để lộ kế hoạch khởi nghĩa.

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước Xô viết. Chính quyền Xô viết đứng trước những thách thức nặng nề: kiệt quệ về kinh tế; chống phá quyết liệt của các thế lực phản cách mạng gây ra nội chiến; sự can thiệp của các nước đế quốc hòng tiêu diệt Nhà nước Vô sản đầu tiên trên thế giới. Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích với trách nhiệm nặng nề đã từng bước đưa cách mạng vượt qua những thách thức to lớn đó. Đảng tỏ rõ ý chí kiên cường, bản lĩnh chính trị, sự kiên định về chiến lược và khôn khéo về sách lược, tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên trong thời kỳ mới xây dựng đất nước, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Đảng nắm quyền lực, cán bộ, đảng viên nắm giữ các chức vụ trong bộ máy chính quyền Xô viết. Đó là sự bảo đảm chắc chắn và cần thiết cho sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là công việc mới mẻ và khó khăn hơn nhiều so với việc giành chính quyền. Trong Đảng đã xuất hiện bệnh quan liêu, hối lộ, nóng vội, kém hiểu biết những vấn đề mới đang đặt ra và cả những biểu hiện “tả khuynh”. Tháng 5-1918, Lê-nin viết tác phẩm Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh” và tính tiểu tư sản nhằm khắc phục những yếu kém trong những đảng viên ít chịu suy nghĩ, học tập, v.v. Theo Lê-nin, Đảng cầm quyền phải chống những biểu hiện kiêu ngạo, phải ra sức học tập, mỗi người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng tổng số những tri thức mà nhân loại đã tạo ra. Phải siết chặt kỷ luật của Đảng, chống những biểu hiện phóng túng, vô kỷ luật. Đảng phải vì nhân dân, được nhân dân ủng hộ. Người nhấn mạnh: “những người bôn-sê-vích sẽ không giữ được chính quyền, tôi không nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa, nếu đảng ta không có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự, nếu không được sự ủng hộ đầy đủ nhất và hết lòng của quảng đại quần chúng”2. Lê-nin còn nêu rõ cách mạng không thể thắng lợi nếu không có một đảng sắt thép được tôi luyện trong đấu tranh, có được sự tín nhiệm của quần chúng và biết nhận xét tâm trạng quần chúng. Đồng thời,  phải đưa ra khỏi hàng ngũ của mình những phần tử hủ bại, không xứng đáng là chiến sĩ cộng sản: “Cần phải đuổi ra khỏi đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, không trung thực, nhu nhược”3.

Những chỉ dẫn của Lê-nin có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng và thực hiện vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng xây dựng Đảng kiểu mới theo tư tưởng của Lê-nin, quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên về lý luận, trí tuệ, phương pháp lãnh đạo và đạo đức cách mạng. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã từng bước khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, chú trọng nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan phù hợp với thực tiễn Việt Nam, tăng cường sức chiến đấu, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Đảng không ngừng xây dựng, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối, chống nguy cơ sai lầm về đường lối; quyết tâm chống bệnh quan liêu, xa rời thực tế và xa dân, chống tham nhũng, lãng phí. Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Với quyết tâm chính trị cao, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đề ra bốn nhóm giải pháp kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, tiêu cực trong Đảng. Cùng với tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng và tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên, Trung ương nhấn mạnh giải pháp rất quan trọng: “Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Cấp ủy các cấp chỉ đạo nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên; đồng thời, tiến hành rà soát, sàng lọc và đưa ngay những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng”4.

Hai là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa cần nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng với mục tiêu rõ ràng là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là sự phát triển và hiện thực hóa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (02-1848). C.Mác khẳng định từ chủ nghĩa tư bản trải qua cuộc cách mạng để tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ. Sau Cách mạng Tháng Mười, từ thực tiễn, Lê-nin đã làm rõ nhận thức về chủ nghĩa xã hội và những đặc trưng về kinh tế, chính trị của thời kỳ quá độ. Lê-nin coi phát triển nhiều thành phần kinh tế là một đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ cùng với sự phát triển thị trường và khoa học công nghệ. Đồng thời, nêu rõ thời gian của thời kỳ quá độ là rất dài với nhiều chặng đường, bước đi khác nhau, với luận điểm rằng: “người ta không thể coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là một công cuộc làm một lần thì xong, mà phải coi đó là một thời đại”5.

Quán triệt tinh thần của Lê - nin và tình hình thực tiễn Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một cuộc cách mạng lâu dài nhiều khó khăn, phức tạp không thể chủ quan, nóng vội. Năm 1946, trong chuyến thăm chính thức nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm khi trả lời các nhà báo: “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình ở nước chúng tôi, những điều kiện ấy chưa có đủ’6. Sau khi miền Bắc được giải phóng (1954), Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định bất kể tình hình như thế nào miền Bắc cũng tiến lên chủ nghĩa xã hội, song phải nhận thức rõ đặc điểm của Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phong kiến với nền nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá. Vì vậy, bằng biện pháp gì, quy mô, hình thức và bước đi như thế nào để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa; phải suy nghĩ để có sự lựa chọn phù hợp tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Chú trọng nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không thể làm giống như nước khác. Cần phải tổng kết kinh nghiệm, đặc điểm để tìm ra quy luật riêng của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) là sự đột phá về nhận thức lý luận, đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, nóng vội. Xuất phát từ đặc điểm, thực tiễn của đất nước, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước; đường lối đó, không ngừng được cụ thể hóa, thể chế hóa và bổ sung, phát triển, được thực tiễn khẳng định tính đúng đắn. Từ thực tiễn đổi mới, tại Đại hội VII (06-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với 6 đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội và những phương hướng lớn trong xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ XI (01-2011) tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 2011 với 8 đặc trưng của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; đề ra 8 phương hướng cơ bản và xử lý đúng đắn các mối quan hệ lớn. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới khẳng định sự phát triển của Việt Nam là phù hợp với sự phát triển của lịch sử và những vấn đề mới của thời đại. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.

Ba là, nêu cao ngọn cờ hòa bình, tinh thần độc lập, tự chủ, hợp tác và phát triển trong quan hệ quốc tế. Cách mạng Tháng Mười tỏ rõ sức mạnh của nước Nga và tinh thần của công nhân, nông dân được tôi luyện từ các phong trào cách mạng năm 1905 và tháng 02-1917. Ngay sau Cách mạng Tháng Mười, Lê-nin, người đứng đầu Nhà nước Xô viết đã ký Sắc lệnh Hòa bình mở đầu quá trình để nước Nga rút ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới. Theo chủ trương của Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích, nước Nga Xô viết đã ký với Đức bản hòa ước Bret-Li-tốp-xcơ ngày 03-3-1918, tạo cơ hội hòa bình để xây dựng đất nước, tăng cường thực lực, tự bảo vệ thành quả cách mạng. Tư tưởng hòa bình thuộc về bản chất của Nhà nước cách mạng, chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Sau này, cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô (1941-1945) trong Chiến tranh thế giới thứ II cũng vì mục tiêu hòa bình cao cả và cứu các quốc gia, dân tộc khác thoát khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít, quân phiệt. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô ủng hộ các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do, bảo vệ hòa bình thế giới.

Tình thế của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945 có nhiều điểm tương tự như sau Cách mạng Tháng Mười ở Nga với những khó khăn, thách thức hiểm nghèo. Phải chống thù trong, giặc ngoài bảo vệ nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ, giữ vững hòa bình trong độc lập, tự do. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nêu cao chính sách hòa bình, thân thiện, thêm bạn, bớt thù, phân hóa hàng ngũ địch; chủ động đàm phán và ký Hiệp định Sơ bộ với Pháp ngày 06-3-1946. Trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc cuối năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ chính sách: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”7. Tháng 9-1947, trả lời nhà báo Mỹ S.Ê-li Mây-si, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”8. Phải chiến đấu suốt 30 năm để giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước, dân tộc Việt Nam càng hiểu sâu sắc giá trị của hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.

Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn vì mục tiêu và khát vọng hòa bình: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”9.

Cách mạng và đất nước Việt Nam đang phát triển trên con đường đúng đắn. Từ những kinh nghiệm, bài học của Cách mạng Tháng Mười Nga và quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng phát triển nhận thức, tăng cường tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phát triển đất nước nhanh, bền vững và tiến cùng thời đại./.

PGS, TS. NGUYỄN TRỌNG PHÚC
_____
_______________

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 68.

2 - Lê-nin - Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 6.

3 - Lê-nin - Toàn tập, Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 154.

4 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 45.

5 - Lê-nin - Toàn tập, Tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 444.

6 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 315.

7 - Hồ Chí Minh -  Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 523.

8 - Hồ Chí Minh -  Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 256.

9 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 153.

Ý kiến bạn đọc (0)

Phát huy vai trò của cơ quan lý luận hàng đầu Quân đội trong phát triển lý luận quân sự cách mạng thời kỳ mới
Là ngọn cờ lý luận quân sự, chính trị của Đảng trong Quân đội, suốt 75 năm qua, Tạp chí Quốc phòng toàn dân luôn khẳng định rõ vai trò, vị thế của mình, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Phát huy vai trò, vị thế đó và trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Tạp chí tiếp tục nỗ lực, phấn đấu nâng cao chất lượng nghiên cứu, tuyên truyền, góp phần phát triển nền lý luận quân sự cách mạng của Đảng.