Thứ Sáu, 22/11/2024, 10:38 (GMT+7)
Mùa Xuân 1971, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, quân và dân ta đã tiến hành thắng lợi Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào, đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719” của quân đội Sài Gòn được quân Mỹ yểm trợ hỏa lực, làm phá sản một bước cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, viết nên một thiên anh hùng ca mang tên “Đường 9 - Nam Lào”, tạo thế và lực mới cho cách mạng miền Nam.
Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào thể hiện tầm nhìn chiến lược, chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng; đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội ta trong tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn; là biểu tượng sinh động của tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. 50 năm đã trôi qua, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều thay đổi, nhưng những bài học quý được đúc rút từ Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ nhất, bài học về sự kiên định đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Từ đầu năm 1970, đế quốc Mỹ thực hiện mưu đồ mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) nhận định: địch sẽ triển khai những bước phiêu lưu quân sự mới dọc theo hành lang Trung - Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia và có thể sẽ đánh phá quyết liệt tuyến vận tải chiến lược Đường Trường Sơn; đồng thời, dự kiến khả năng địch tiến đánh ra Nam Quân khu 4 nhằm “tiêu diệt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến miền Nam Việt Nam, cắt đứt đường tiếp tế và các cơ sở hậu phương của ta”1. Không để bị động, bất ngờ, ngày 10 tháng 10 năm 1970, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Binh đoàn 70 (B70) gồm 3 sư đoàn bộ binh (304, 308 và 320), Trung đoàn pháo binh 45, Trung đoàn pháo phòng không 241 và một số đơn vị trực thuộc, bố trí ở Nam Quân khu 4, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra. Đồng thời, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo các đơn vị ở khu vực đường 9, bộ đội Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (B5), Quân khu Trị - Thiên (B4) và Đoàn 559 gấp rút điều chỉnh lực lượng, bố trí thế trận, sẵn sàng phối hợp chiến đấu cùng các đơn vị chủ lực cơ động của Bộ.
Đúng như nhận định của Bộ Chính trị, tháng 11 năm 1970, Tổng thống Mỹ Níchxơn phê chuẩn kế hoạch mở ba cuộc hành quân quy mô lớn trên các vùng chiến lược của ba nước Đông Dương: “Lam Sơn 719” từ Trị - Thiên đánh sang khu vực Đường 9 - Nam Lào, “Toàn thắng 1-71” đánh sang Đông Bắc Campuchia và “Quang Trung 4” đánh ra vùng ngã ba biên giới phía Bắc Tây Nguyên. Trước động thái của địch, Bộ Chính trị nhận định: Việc Mỹ và chính quyền Sài Gòn mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 không phải là chúng đang mạnh lên, mà ngược lại thế và lực của chúng đã và đang yếu thêm .... Cho nên, việc Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ra Đường 9 - Nam Lào sẽ là “điều kiện thuận lợi, cơ hội tốt để tiêu diệt lực lượng địch, phá vỡ từng mảng trong hệ thống bố trí của chúng”2. Bộ Chính trị chỉ thị cho Quân ủy Trung ương nhất thiết phải tập trung chỉ đạo đánh thắng cuộc hành quân đầy tham vọng này, dù có phải động viên sức người, sức của và hy sinh như thế nào, vì đây là một trong những trận đánh có ý nghĩa quyết định về chiến lược. Quán triệt tinh thần đó, ngày 04 tháng 02 năm 1971, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 51/QĐ-QP thành lập Mặt trận Đường 9 - Nam Lào (gọi tắt là Bộ Tư lệnh 702) trực tiếp chỉ huy điều hành chiến dịch. Mặt trận do đồng chí Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh; đồng chí Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy, kiêm Bí thư Đảng ủy.
Sau những hoạt động chuẩn bị chiến trường, ngày 08 tháng 02 năm 1971, quân Mỹ và quân đội Sài Gòn bắt đầu tiến công khu vực Đường 9 - Nam Lào. Ngay lập tức, ngày 09/02/1971, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị, xác định rõ quyết tâm “Kiên quyết đập tan bước phiêu lưu quân sự mới của đế quốc Mỹ và tay sai, giành toàn thắng cho Chiến dịch X” (Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào). Quân ủy Trung ương kêu gọi: “Toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên hãy ra sức thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng... Tập trung cao nhất tinh thần và sức lực dũng mãnh tiến công, liên tục tiến công tiêu diệt thật nhiều lực lượng tinh nhuệ của địch, quyết bảo vệ con đường Hồ Chí Minh. Xốc tới giành thắng lợi cao nhất trong chiến dịch quan trọng này”3. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào đã giành được thắng lợi giòn giã sau hơn 50 ngày đêm liên tục phản công, tiến công địch (30/01 - 23/3/1971). Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, củng cố thế chủ động của ta trên chiến trường, làm phá sản một bước cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ; đồng thời, tạo tiền đề quan trọng để quân và dân ta đẩy mạnh tiến công, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vào mùa Xuân năm 1975.
Ngày nay, sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín lớn đối với các nước trong khu vực và trên trường quốc tế. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện thuận lợi, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức khó lường. Do đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết số 24-NQ/TW và Kết luận số 31-KL/TW ngày 16 tháng 4 năm 2018 của Bộ Chính trị khóa XII về Chiến lược quốc phòng và Chiến lược quân sự Việt Nam... Với vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Quân đội phải luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phấn đấu đến năm 2030 một số quân, binh chủng được xây dựng hiện đại và từ năm 2030, xây dựng quân đội hiện đại, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Thứ hai, bài học về tạo thế, phát huy sức mạnh của lực lượng binh chủng hợp thành, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động, xây dựng thế trận phản công vững chắc
Ngay khi nắm bắt được âm mưu của địch mở cuộc tiến công vào khu vực Đường 9 - Nam Lào, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các đơn vị khẩn trương tổ chức chuẩn bị, xây dựng kế hoạch tác chiến, tạo lập thế trận nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang ba thứ quân đánh bại bước phiêu lưu quân sự mới của địch. Để thực hiện tốt kế hoạch trên, lần đầu tiên Bộ Quốc phòng tổ chức, thành lập binh đoàn (B70) tương đương cấp quân đoàn, sẵn sàng tham gia chiến dịch. Ta đã tổ chức, bố trí lực lượng có thể đánh địch được cả ở phía Bắc, phía Nam, phía Tây, phía Đông và ở khu vực phía sau vào các căn cứ hậu cần kỹ thuật của địch. Lực lượng ngăn chặn, tạo thế gồm Trung đoàn 24, Sư đoàn 304 và các đơn vị tại chỗ của Đoàn 559. Lực lượng trên hướng chủ yếu phía Bắc gồm Binh đoàn 70 (thiếu) và phần lớn xe tăng, pháo binh chiến dịch. Lực lượng trên hướng thứ yếu phía Nam gồm Sư đoàn 324 (thiếu), Sư đoàn 2 và một bộ phận pháo binh, xe tăng, phòng không chiến dịch. Lực lượng đánh địch ở phía sau, gồm lực lượng tại chỗ của B5 (Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị), một số tiểu đoàn đặc công của Bộ, Trung đoàn pháo binh 84 và Trung đoàn 2, Sư đoàn 324. Lực lượng đánh địch trên hướng phối hợp ở phía Tây gồm Trung đoàn 48, Sư đoàn 320 và lực lượng tại chỗ. Cùng với đó, lực lượng của Binh đoàn Trường Sơn đã tổ chức 7 khu vực tác chiến tại chỗ; huy động tham gia chiến dịch 1 sư đoàn và 5 trung đoàn phòng không (có một trung đoàn tên lửa của Bộ), 10 tiểu đoàn pháo cao xạ, 25 đại đội và 33 trung đội súng máy cao xạ bố trí thành 8 cụm trên tâm điểm là tam giác Bản Đông - Tha Mé - La Hạp, hình thành lưới lửa phòng không nhiều tầng, nhiều vòng đón đánh máy bay địch.
Nhờ có sự chủ động trong chuẩn bị kế hoạch tác chiến, bố trí lực lượng, thiết bị chiến trường nên khi địch bắt đầu triển khai lực lượng xuất phát tiến công, các lực lượng chiến dịch của ta trên toàn mặt trận đã nhanh chóng tổ chức đội hình, tạo thế trận đánh địch. Các lực lượng tại chỗ đánh ngăn chặn, làm chậm bước tiến của địch. Lực lượng cơ động tổ chức đánh những trận tiêu diệt lớn. Trước những đòn phản công kiên quyết, mạnh mẽ của ta, quân địch rơi vào thế bế tắc, lúng túng, tinh thần chiến đấu suy sụp. Đây chính là thời cơ để ta tập trung lực lượng, chuyển mạnh sang tiến công, tập kích các cụm quân, truy kích địch tháo chạy, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành thắng lợi quyết định cho chiến dịch.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng những tiến bộ vượt bậc của khoa học - công nghệ và Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, sự biến động của tình hình thế giới, khu vực đem lại cả thuận lợi và thời cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đặt ra những yêu cầu mới đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; tăng cường tiềm lực quốc phòng, tạo thế chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Theo đó, cần coi trọng xây dựng lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ cân đối, đồng bộ, có chất lượng tổng hợp, trình độ, sức mạnh và khả năng phối hợp tác chiến cao, nhất là giữa lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ. Toàn quân cần tranh thủ thời cơ, tận dụng thời gian, khai thác, phát huy tốt lợi thế của các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, khoa học - công nghệ,... nhằm đẩy nhanh lộ trình hiện đại hóa quân đội đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc và đóng góp tích cực cho nền hòa bình, ổn định ở khu vực và thế giới. Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới (giai đoạn 2020 - 2025), điều chỉnh tổ chức, biên chế bảo đảm “tinh, gọn, mạnh”; cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, giảm đầu mối trung gian, đồng bộ giữa vũ khí, trang bị với nhân lực và công tác bảo đảm. Tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22 tháng 9 năm 2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới và Kết luận số 64-KL/TW, ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW. Đây là những vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững an ninh chính trị, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đó, cần tổ chức xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao, được quản lý chặt chẽ, sẵn sàng động viên, mở rộng lực lượng khi cần thiết. Củng cố lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, có số lượng, cơ cấu phù hợp với đặc điểm địa bàn, dân số, chú trọng lực lượng dân quân tự vệ ở các vùng trọng điểm, dân quân biển; không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh ngay tại cơ sở, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Hơn lúc nào hết, toàn quân cần duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, phát huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; tiếp tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là lực lượng nòng cốt trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, trước nhất là đại dịch Covid-19, bão lũ, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân... làm đẹp thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”.
Thứ ba, bài học về vận dụng nghệ thuật chiến dịch phản công linh hoạt, sáng tạo, chuyển hóa thế trận đúng thời cơ, giành thắng lợi nhanh chóng
Thắng lợi của Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào đánh dấu bước phát triển cao về nghệ thuật chiến dịch của Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, nghệ thuật chiến dịch phản công nói riêng; đồng thời khởi đầu giai đoạn quân ta mở các chiến dịch tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.
Về nghệ thuật chiến dịch, ta đã đưa nghệ thuật tác chiến phản công lên một trình độ khá hoàn thiện, lập thế ta, phá thế địch; kết hợp nhuần nhuyễn, khéo léo, ăn khớp và hiệu quả cao hoạt động tác chiến giữa lực lượng chủ lực cơ động với lực lượng tại chỗ trên địa bàn rừng núi, thưa dân; lực lượng tại chỗ tạo thế cho lực lượng cơ động có điều kiện thuận lợi để tập trung đánh những đòn tiêu diệt lớn quân địch. Đó còn là nghệ thuật phối hợp giữa bộ đội Việt Nam và Lào trong phạm vi chiến dịch; nghệ thuật kết hợp nhịp nhàng giữa các hướng của chiến dịch; nghệ thuật chủ động lựa chọn thời cơ kết thúc chiến dịch.
Về phương pháp tác chiến của chiến dịch phản công, đó là nghệ thuật điều hành tác chiến ngăn chặn, vây hãm các cánh quân địch, tập trung bẻ gãy từng cánh quân của địch (cánh Bắc, rồi cánh Nam đường 9) khi chúng còn đứng chân chưa vững; tập trung lực lượng lớn đánh trận then chốt quyết định vào trung tâm chỉ huy và đề kháng của địch để đánh bại cuộc tiến công của địch.
Về chỉ đạo chiến thuật, chiến dịch Đường 9 - Nam Lào đánh dấu giai đoạn phát triển rất phong phú về các hình thức chiến thuật như kết hợp phòng ngự với tiến công; bao vây đột phá tiêu diệt các cụm lực lượng có xe tăng, thiết giáp của địch; kết hợp chốt chặn đánh địch đổ bộ đường không với cơ động tiêu diệt địch trên điểm cao; lùng sục vây quét địch và truy kích đánh địch rút chạy. Thành công lớn về vận dụng chiến thuật trong chiến dịch phản công của ta lần này là đã đánh thắng những thủ đoạn tác chiến của địch như chốt điểm cao, đột phá bằng xe tăng thiết giáp, đặc biệt là chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng của chúng...
Có thể khẳng định, với sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo nghệ thuật chiến dịch phản công, quân ta đã đánh bại các biện pháp tác chiến và chiến thuật đánh ra vòng ngoài làm chỗ dựa cho chiến lược quân sự của địch, làm phá sản công thức “chủ lực quân Sài Gòn + hỏa lực yểm trợ tối đa của Mỹ” trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Bài học về vận dụng nghệ thuật chiến dịch phản công vẫn còn nguyên giá trị đối với quy mô tổ chức, vũ khí trang bị và phương pháp tác chiến của Quân đội ta hiện nay. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới luôn đặt ra những điều kiện tác chiến hiện đại và nếu xảy ra chiến tranh xâm lược thì kẻ thù luôn có ưu thế hơn ta về lực lượng, trang bị, phương tiện… Tuy nhiên, với tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm được củng cố, quân và dân ta có đủ khả năng để chủ động triển khai và thực hành những đòn phản công, tiến công, phát huy nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện tác chiến hiện đại, làm thất bại mọi mưu đồ gây chiến tranh xâm lược. Điều quan trọng, Quân đội phải làm tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước, chủ động xây dựng các phương án, đối sách ngăn ngừa, hóa giải nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa và kiểm soát tốt các nhân tố có thể gây bất lợi đột biến, không để các tình huống bất ngờ xảy ra.
Toàn quân cần tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục và đào tạo theo tinh thần Kết luận số 60-KL/QUTW, ngày 18 tháng 1 năm 2019 của Quân ủy Trung ương về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 765-NQ/QUTW ngày 20 tháng 12 năm 2012 về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo. Thực hiện tốt phương châm huấn luyện “cơ bản, thiết thực, vững chắc”; đẩy mạnh đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp huấn luyện, diễn tập, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu, địa bàn hoạt động, đối tượng tác chiến, tổ chức biên chế, trang bị, phù hợp với nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đặc biệt, phải kế thừa, phát huy thành tựu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp cận, ứng dụng thành tựu của Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự, khoa học, công nghệ quân sự, công nghiệp quốc phòng, làm chủ vũ khí, trang bị thế hệ mới, hiện đại, nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh tổng hợp của Quân đội, sẵn sàng bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Thứ tư, bài học về phát huy tinh thần đoàn kết quốc tế, nhất là sự phối hợp chiến đấu giữa quân và dân Việt Nam - Lào, tích cực, chủ động trong quan hệ đối ngoại quân sự, quốc phòng
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương, Bộ Chính trị họp ngày 19 tháng 6 năm 1970, ra Nghị quyết “Về tình hình mới ở bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta”. Nghị quyết nhấn mạnh: “Trước tình hình mới ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào đã trở thành một chiến trường thống nhất, nhiệm vụ mới của chúng ta là: động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cả hai miền nước ta, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu nhân dân ba nước Đông Dương, trở thành một khối thống nhất có một chiến lược chung, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.... Giúp đỡ nhân dân Khơme và phối hợp với bạn đẩy mạnh cao trào cách mạng, đánh bại âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ trên chiến trường Campuchia, hiện là khâu yếu nhất của địch, giúp đỡ nhân dân Lào và phối hợp với bạn đẩy mạnh cách mạng Lào, xây dựng vùng giải phóng vững mạnh về mọi mặt, chú trọng xây dựng và mở rộng căn cứ địa Trung, Hạ Lào, đánh bại âm mưu của đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt ở Lào”4.
Nhận định địch sẽ tiếp tục có những hành động phiêu lưu quân sự mới và dự đoán chính xác hướng tiến công của địch vào khu vực Đường 9 - Nam Lào, Trung ương Đảng ta và Trung ương Đảng Bạn đã sớm có những bàn bạc, thống nhất lãnh đạo quân và dân hai nước Việt Nam - Lào sẵn sàng đập tan mọi hành động quân sự của địch với quyết tâm: “Tập trung lực lượng kiên quyết tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của đế quốc Mỹ và quân đội Sài Gòn, bảo vệ bằng được con đường chi viện cho tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân các nước Lào và Campuchia anh em, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ và tay sai”5.
Trên cơ sở đó, từ nửa cuối năm 1970 đến tháng 01 năm 1971, bộ đội Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với Quân giải phóng nhân dân Lào mở nhiều cuộc tiến công vào các vị trí phòng tuyến của địch trên đất Lào, giải phóng nhiều vùng phía Đông Bô Lô Ven, Huội Sài, Pha Lan, Sê Săng Soi...; đồng thời, luôn theo dõi nắm chắc tình hình, đẩy mạnh các hoạt động sau lưng địch nhằm phá bước chuẩn bị chiến trường của chúng. Trong thời gian diễn ra chiến dịch, các chuyên gia Đoàn 565 đã cùng Đoàn 968 Quân tình nguyện Việt Nam tập trung giúp Quân khu Trung Lào huy động toàn bộ lực lượng Quân khu và tỉnh Xavanakhẹt (địa bàn chủ yếu của chiến dịch) nhanh chóng triển khai thế trận, bố trí sẵn lực lượng tại các khu vực được phân công theo phương án tác chiến chung. Quá trình diễn ra chiến dịch, bộ đội hai nước có sự phối hợp nhịp nhàng, kiên quyết tiến công địch ngay từ đầu.
Nhờ tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam mà Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào giành thắng lợi hoàn toàn. “Thắng lợi ở Đường 9 - Nam Lào đã đánh gục vai trò nòng cốt của quân ngụy Sài Gòn trong âm mưu “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương” của Mỹ, mở ra triển vọng mới cho cách mạng Lào và toàn bộ chiến trường Đông Dương. Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào không chỉ khẳng định sức mạnh to lớn của Quân đội và nhân dân Việt Nam, mà còn là sự khẳng định sức mạnh vĩ đại của tình đoàn kết Việt Nam - Lào trong suốt cuộc kháng chiến”6. Thắng lợi đó là minh chứng sâu đậm của tình đoàn kết quốc tế và có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, trước yêu cầu mới, để chủ động, linh hoạt trong đối ngoại quốc phòng phục vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, toàn quân cần tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, nhất là Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31 tháng 12 năm 2013 của Quân ủy Trung ương “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trên cơ sở đó, nhận thức đầy đủ vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới. Trong điều kiện đối tượng, đối tác đan xen như hiện nay, công tác đối ngoại quốc phòng cần nhất quán chủ trương vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; vận dụng linh hoạt, mềm dẻo về sách lược theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh hợp tác song phương, nâng tầm đối ngoại đa phương theo Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 08 tháng 8 năm 2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, các nước trong khu vực ASEAN; cân bằng quan hệ với các nước lớn, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước có tiềm năng, gia tăng mức độ đan xen lợi ích chiến lược với các nước. Tích cực tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng đa phương trong khuôn khổ ASEAN và do ASEAN giữ vai trò chủ đạo; tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở các cấp độ. Giữ vững định hướng chính trị, gắn kết nội dung hợp tác về quốc phòng với các lĩnh vực khác; chủ động tham mưu các phương án đấu tranh ngoại giao hiệu quả, giảm căng thẳng, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc và tranh thủ tối đa mọi lợi thế phục vụ xây dựng quân đội nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Hội thảo khoa học về sự kiện chiến thắng Đường 9 - Nam Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một hoạt động có ý nghĩa thiết thực; là dịp để chúng ta nhìn lại những chiến công hiển hách được xây đắp nên bằng sự cống hiến, hy sinh của các thế hệ cha anh. Càng tự hào về chặng đường chiến đấu vinh quang của quân và dân ta trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước, chúng ta càng phải tiếp tục phát huy, vận dụng những bài học kinh nghiệm, bài học lịch sử quý báu, quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhân dân giao phó, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại tướng Ngô Xuân LỊch, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng _______________________
1, 2 - Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 31 (1970), Nxb CTQG, H. 2004, tr. 222, 225
3 - Chỉ thị 009/QUTW do Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp ký ngày 9/2/1971. Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Quân ủy Trung ương, Hồ sơ 594.
4 - Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 31 (1970), Nxb CTQG, H. 2004, tr. 238 - 239.
5 - Đề cương tuyên truyền giáo dục về chiến thắng có ý nghĩa chiến lược trên Mặt trận Đường 9, ngày 19/3/1971, lưu Thư viện Quân đội, số ký hiệu T.6682, tr. 6.
6 - Đảng Nhân dân cách mạng Lào – Đảng Cộng sản Việt Nam - Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam (1930-2007), Nxb CTQG, H. 2011, tr. 464.
Đường 9 Nam Lào
Nghệ thuật tạo lập thế trận phản công trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào 29/03/2021
Tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào 1971 21/03/2021
Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 giá trị lịch sử và hiện thực 19/03/2021
Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 - Bài học đối với công tác xây dựng khu vực phòng thủ 19/03/2021
Chiến thắng Đường 9 – Nam Lào 1971 - Bài học cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay 19/03/2021
Họp báo giới thiệu Hội thảo cấp Bộ Quốc phòng “Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 - Giá trị lịch sử và hiện thực” 12/03/2021