QPTD -Thứ Tư, 13/05/2020, 08:39 (GMT+7)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng và sự vận dụng của Đảng ta

Năm nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta long trọng kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2020). Thời gian ngày một lùi xa, nhưng tư tưởng, đạo đức, phong cách của người mãi mãi là nền tảng tư tưởng, tấm gương sáng để chúng ta học tập và noi theo, nhất là tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam.

Khi bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có nhiều bài viết, bài nói rất sâu sắc về vấn đề này, song tựu trung lại nổi lên một số luận điểm cơ bản chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng, làm sáng tỏ trong điều kiện mới. Trên cơ sở nhận thức, quán triệt và vận dụng sáng tạo luận điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: “Cách mạng vô sản chỉ có thể giành thắng lợi khi có Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo”, Lãnh tụ Hồ Chí Minh khẳng định: cách mạng Việt Nam “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”1. Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân, vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; có khả năng đoàn kết, tập hợp, lôi kéo mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh làm cách mạng - nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, Đảng muốn tồn tại, phát triển, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng tiến lên thì trước hết “phải có chủ nghĩa làm cốt”, bởi “Không có lý luận cách mạng, thì không có phong trào hành động cách mạng” và trong Đảng ai ai cũng phải hiểu, nắm vững tinh thần đó làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn. Lấy chủ nghĩa “làm cốt”, theo Hồ Chí Minh đó là cơ sở nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng để Đảng định ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược và mục tiêu cần đạt tới của cách mạng, đảm bảo cho sự đoàn kết, thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng. Người chỉ rõ: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”2, nên “Phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”3. Nhờ đó, làm cho Đảng có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc. Tuy nhiên, “Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”4, cho nên cần  “Học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người, và đối với bản thân mình; là học tập cái chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”5.  

Khi bàn đến tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, không thể không nhắc đến quan điểm xây dựng Đảng theo những nguyên tắc cơ bản về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Theo Người, để Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất và mạnh mẽ của những người cộng sản, một Đảng Mác - Lênin chân chính thì Đảng phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ. Nghĩa là, trong hoạt động, Đảng phải “Có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”6. Tất cả mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng; khi chưa có nghị quyết thì “tha hồ bàn cãi”, nhưng khi có quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là bàn cách thi hành cho được, cho nhanh, chứ không phải là đề nghị không thực hiện.

Để làm được điều đó, Người yêu cầu: “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”7; bởi, tập trung và dân chủ là hai vế của một nguyên tắc có quan hệ biện chứng, không tách rời, không đối lập. “Tập trung trên nền tảng dân chủ. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”8. Cùng với nguyên tắc tổ chức, Hồ Chí Minh coi “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; “Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung”9. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, coi đây là nguyên tắc sinh hoạt, quy luật phát triển của Đảng, nên phải có thái độ và phương pháp hợp lý: Thành khẩn, trung thực, kiên quyết, có văn hoá, phê bình việc chứ không phê bình người. Đảng phải có kỷ luật tự giác, nghiêm minh để đảm bảo “tư tưởng nhất trí và hành động thống nhất”; tăng cường đoàn kết, thống nhất, coi đó là sức mạnh của Đảng, nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng. Trong quan hệ với quần chúng nhân dân, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng phải thuyết phục, thu phục, chinh phục được quần chúng nhân dân; là trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc, đạo đức, văn minh của toàn xã hội.

Chỉnh đốn, đổi mới Đảng là tư tưởng nhất quán xuyên suốt trong quá trình xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh. Người coi đây là một tất yếu khách quan, một công việc cơ bản, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng. Đặc biệt, trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên của Đảng gắn với chức quyền rất dễ “đánh mất mình”, “ngày hôm qua” có thể là những con người “vĩ đại” được quần chúng ca ngợi, tin yêu, kính trọng nhưng “ngày hôm nay” có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, v.v. Do đó, việc chỉnh đốn, đổi mới Đảng là khôi phục đạo đức cách mạng, giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực cho cán bộ, đảng viên, khôi phục uy tín chính trị của Đảng đối với nhân dân. Chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng, song Hồ Chí Minh cũng lưu ý: vào thời điểm khi cách mạng gặp khó khăn cần phải bình tĩnh, sáng suốt để Đảng, đảng viên không rơi vào bi quan, dao động, rụt rè, lùi bước; khi cách mạng trên đà thắng lợi phải chỉnh đốn, đổi mới để ngăn ngừa bệnh kiêu ngạo, thoả mãn, chủ quan; khi cách mạng chuyển giai đoạn, cũng phải chỉnh đốn, đổi mới để Đảng đủ sức lãnh đạo trước sự phát triển của thực tiễn, v.v.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi là kim chỉ nam cho Đảng ta xác định phương hướng xây dựng Đảng qua các kỳ đại hội, đặc biệt là Đại hội XIII sắp tới. Vận dụng tư tưởng của Người trong tình hình hiện nay, Đảng ta xác định phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; gắn xây dựng với chỉnh đốn Đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.

Trước hết, nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng. Bản lĩnh chính trị của Đảng thể hiện ở việc kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng. Do đó, cần phải thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, truyền thống dân tộc và kiến thức mới của thời đại; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng; giữ vững bản chất giai cấp công nhân; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Thực hành dân chủ gắn với tăng cường kỷ cương; phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Trí tuệ, sự sáng suốt trong lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc vạch ra đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm và điều kiện của nước ta; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó với các thách thức, biến động của tình hình. Kiên quyết đấu tranh có hiệu quả với những biểu hiện cơ hội, giáo điều, bảo thủ, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, v.v.

Hai là, coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Trong đó, tập trung đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng, bảo đảm tính đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn; nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị; kết hợp chặt chẽ giáo dục, học tập lý luận với rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, góp phần nâng cao nhận thức, hành động trong Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Thường xuyên làm tốt công tác dự báo, nắm chắc tình hình tư tưởng, không để bị động, bất ngờ; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu độc trên Internet, mạng xã hội. Tăng cường quản lý, định hướng hoạt động các cơ quan báo chí; xây dựng đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, tinh thông nghề nghiệp; phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trên lĩnh vực tư tưởng. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những vấn đề khó, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn.

Ba là, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Theo đó, phải kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và những hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho những tệ nạn đó. Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho  cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng, tránh xa chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, tham vọng quyền lực; nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ. Thực hiện tốt quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu; nêu gương phải trở thành một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Cùng với đó, cần giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước; kịp thời biểu dương những tấm gương về đạo đức, lối sống; đấu tranh với những biểu hiện lệch lạc, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống.

Bốn là, xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng thực sự là nền tảng và hạt nhân chính trị ở cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng có vị trí vai trò hết sức quan trọng, là cầu nối Đảng với quần chúng, nơi trực tiếp tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do vậy, cần khảo sát, đánh giá thực trạng từng tổ chức cơ sở đảng để có biện pháp đổi mới, chỉnh đốn cho phù hợp, bảo đảm mỗi loại hình cơ sở hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ và tương thích với tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; tăng cường chấn chỉnh, củng cố các cơ sở yếu kém; nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và các nguyên tắc của Đảng phải được quán triệt, thực hiện nghiêm túc. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở, bố trí đúng đội ngũ cán bộ chủ chốt, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy. Phát huy vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong quy tụ sức mạnh, lãnh đạo đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị; làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện, kết nạp đảng viên và thường xuyên rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.

Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu vững mạnh. Chất lượng cán bộ ảnh hưởng trực tiếp tới bản chất giai cấp, vai trò, hiệu quả lãnh đạo và uy tín của Đảng. Bởi vậy, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải quán triệt tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “đừng nhìn gà hoá cuốc”, “đừng thấy đỏ tưởng là chín”, đừng chỉ thấy “cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài  bên trong”. Vì thế, cần đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ; không để lọt những người cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm, … vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đồng thời, không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài. Tăng cường bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ; phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, đúng người, đúng việc và đưa cán bộ, đảng viên vào hoạt động thực tiễn để rèn luyện.

Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Việc đổi mới phải theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết không sát thực tiễn, thiếu tính khả thi. Tiếp tục thể chế hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Với Nhà nước, Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện làm thay mà phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước. Với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, cần chú ý xác định mục tiêu, phương hướng và nội dung hoạt động từng thời kỳ; phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức và hoạt động. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới phong cách hoạt động, lề lối làm việc dân chủ, thiết thực, nói và làm thống nhất, khắc phục bệnh quan liêu, tùy tiện, chủ quan, hình thức.

Xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng Đảng. Bởi theo Người: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thắng lợi của cách mạng là sự phấn đấu hy sinh và trí thông minh sáng tạo của hàng triệu nhân dân. Vì vậy, sự gắn bó với quần chúng, trước hết, người đảng viên phải tin vào khả năng và lực lượng của nhân dân. Nêu cao tinh thần phục vụ, trách nhiệm trước quần chúng, chăm lo đến lợi ích và đời sống của người dân. Phải hoà mình với quần chúng thành một khối, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, gương mẫu trước quần chúng từ lời nói đến việc làm, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Thông qua phong trào cách mạng của quần chúng mà rèn luyện và sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên.

ĐỖ HỒNG LÂM
___________

1 - Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 267, 268.

2, 3 - Sđd, Tập 2, tr. 268, 280.

4 - Sđd, Tập 6, tr. 247. 

5 - Sđd, Tập 9, tr. 292.

6 - Sđd, Tập 7, tr. 229.

7 - Sđd, Tập 10, tr. 118.

8 - Sđd, Tập 7, tr. 240, 241.

9 - Sđd, Tập 5, tr. 504,505.

Ý kiến bạn đọc (0)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc phòng toàn dân - giá trị, ý nghĩa trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta, dân tộc ta một kho tàng di sản tư tưởng vô giá, trong đó tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc phòng toàn dân là nội dung cốt lõi trong tư tưởng quân sự của Người.