Bình luận - Phê phán Phòng, chống "DBHB"; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng

QPTD -Thứ Sáu, 09/10/2015, 10:47 (GMT+7)
Yếu tố nhân quyền trong quan hệ quốc tế và việc thực hiện nhân quyền ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, vấn đề nhân quyền được Liên hợp quốc, cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm, nhằm mang lại cho con người một cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa của mỗi quốc gia khác nhau, nên nhận thức, quan điểm và tiêu chí về vấn đề này cũng có những điểm không giống nhau. Vì thế, không thể áp đặt tiêu chí của nước này với nước khác.

 

Mặc dù vậy, điều vô lý đó hiện vẫn đang tồn tại. Hơn thế, nhân quyền trở thành chủ đề thường xuyên và quan trọng. Nhân tố nhân quyền được Mỹ và phương Tây sử dụng như một điều kiện tiên quyết - lá bài quen thuộc trong quan hệ quốc tế; thậm chí họ còn lợi dụng thông qua Liên hợp quốc để hợp pháp hóa những hành động can thiệp quân sự trắng trợn vào các nước có chủ quyền, nhưng họ cho là vi phạm nhân quyền.

Họ công khai cho rằng, nhân quyền là một nhân tố quan trọng trong chính sách ngoại giao; áp đặt giá trị, tiêu chuẩn nhân quyền của mình với các nước; đồng thời, sử dụng vấn đề nhân quyền như một công cụ để gây sức ép về chính trị, kinh tế và pháp lý. Không thừa nhận và không thể chịu nổi sự áp đặt của Mỹ và phương Tây nên đã có nhiều nước công khai quan điểm, tiêu chí nhân quyền của nước mình, mong muốn tham gia vào tổ chức nhân quyền quốc tế để có điều kiện đối thoại giải quyết trực tiếp những bất đồng về nhân quyền. Đây là điểm sáng đáng ghi nhận, dẫn đến kết quả là hoạt động nhân quyền được các nước, các tổ chức quốc tế thực hiện ngay trong các hội nghị, hội thảo, trao đổi, gặp gỡ song phương từ cấp chuyên viên đến cấp cao nhất, từ đối thoại hòa bình đến bao vây, cô lập về chính trị, kinh tế, đối đầu quân sự. Nhưng đồng thời cũng phản ánh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền trong quan hệ quốc tế đã và đang diễn ra gay gắt.

Với quan điểm độc đoán, phiến diện, phi thực tiễn, Mỹ và phương Tây cho rằng, chỉ có mô hình dân chủ đa đảng và kinh tế thị trường mới đảm bảo dân chủ, nhân quyền, còn lại đều là độc tài, vi phạm. Vì thế, Quốc hội Mỹ và Nghị viện châu Âu ra nghị quyết đòi một số nước thay đổi luật, cải thiện tình hình nhân quyền và đưa ra các khuyến nghị kêu gọi chính quyền Mỹ và các nước châu Âu có các chế tài, ngừng viện trợ kinh tế đối với những nước mà họ cho là vi phạm nghiêm trọng nhân quyền. Họ còn đưa ra học thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền” để sẵn sàng can thiệp bằng mọi hình thức vào công việc nội bộ của các nước. Khi các biện pháp gây sức ép về chính trị, kinh tế, bao vây cấm vận không đạt được mục đích, Mỹ và phương Tây có thể nhân danh dân chủ, nhân quyền tiến hành can thiệp quân sự và phát động chiến tranh.

Đối với Việt Nam, về cơ bản cũng như các nước không chấp nhận tiêu chuẩn dân chủ, nhân quyền do Mỹ, phương Tây áp đặt, nên trong quan hệ, hợp tác cùng với vấn đề dân chủ, nhân quyền, họ còn gắn với tôn giáo, dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số. Cách làm phổ biến là vận động, gây sức ép với Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc thông qua nghị quyết về tình hình vi phạm dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Qua đó, yêu cầu Liên hợp quốc cử đặc phái viên, các đoàn theo dõi tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Những biện pháp thường sử dụng là: đòi sửa đổi Hiến pháp, một số điều luật, quy định mà theo họ không phù hợp với luật pháp quốc tế. Thực chất là gián tiếp áp đặt, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta để từng bước thay đổi một số điều, khoản trong Hiến pháp có liên quan đến thể chế chính trị, như đòi bỏ Điều 4, Điều 66 trong Hiến pháp 2013; đòi trả tự do cho một số đối tượng vi phạm pháp luật hiện đang bị giam giữ, v.v. Như vậy, có thể thấy rằng, trong chính sách ngoại giao của Mỹ và phương Tây với Việt Nam thì vấn đề dân chủ, nhân quyền gắn chặt với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật. Chỉ có điều, mức độ sức ép với Việt Nam đến đâu còn tùy thuộc vào lợi ích của họ, nhất là tình hình cụ thể liên quan trong mối quan hệ đan xen, phức tạp giữa các nước lớn trong khu vực và thế giới.

Để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề con người, coi “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển”[1], là động lực phát triển của xã hội. Bởi vậy, ngay trong Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước về vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được hoàn thiện. Cuộc sống của nhân dân ngày càng được nâng lên cả về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, v.v. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân được thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước”[2]. Bởi thế, khi khẳng định Hiến pháp năm 2013 là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, là vì có sự đóng góp ý kiến sâu rộng trong nhân dân. Tương tự như vậy là tiến tới Đại hội XII của Đảng, để đảm bảo sự thành công của Đại hội, đưa ra những quyết sách đúng, ngoài việc lấy ý kiến của các tổ chức đảng và đảng viên, Đảng ta đã và đang tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân vào các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. Thông qua chủ trương, hành động của Đảng và Nhà nước nêu trên cho thấy, đó là cơ sở, điều kiện để nhân dân phát huy quyền làm chủ trên lĩnh vực chính trị, xã hội, nhất là trước những sự kiện, vấn đề hệ trọng của đất nước.

Bảo đảm quyền về kinh tế cho mọi người dân được thể hiện rõ trong đường lối, chủ trương của Đảng mà biểu hiện cụ thể qua các kỳ Đại hội IX, X, XI. Theo đó, đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội và công bằng xã hội; phát triển hài hòa đời sống vật chất và tinh thần. Đồng thời, không ngừng nâng cao mọi mặt về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích tập thể và cộng đồng xã hội cho mọi công dân; tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ, tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội, v.v.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta đảm bảo cho mọi người bình đẳng trước pháp luật. Về quyền tự do tư tưởng, ngôn luận báo chí và thông tin, ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị (khoá VIII)  ra Chỉ thị 22-CT/TW về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản, khẳng định sự cần thiết phải nâng cao chất lượng, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của nhân dân về thông tin trong thời kỳ mới. Đối với việc bảo đảm các quyền về tự do tôn giáo, tín ngưỡng, Đảng ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật, v.v. Tích cực đấu tranh ngăn chặn các hành vi lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ các dân tộc, làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước. Đảng ta đặc biệt coi trọng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và xác định rõ đó là chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng. Những nỗ lực của Việt Nam trên lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở quan trọng, đảm bảo ngày càng tốt hơn về quyền con người.

Tôn trọng và bảo đảm quyền con người được nêu rõ trong các bản hiến pháp của Việt Nam kể từ 1946 đến nay. Điều 14, Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Từ năm 1986 đến nay, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hơn 40 bộ luật, luật và nhiều pháp lệnh liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, như: Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động, Luật quốc tịch, Luật bình đẳng giới, v.v. Cùng với đó, Việt Nam đã đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả của bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình.

Mặc dù trình độ phát triển kinh tế còn thấp và đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng năm 1982, Việt Nam đã ký cam kết thực hiện các công ước quốc tế bảo đảm quyền con người, như: Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ, Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, v.v. Năm 1991, Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em. Việc Việt Nam tham gia hầu hết các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, thể hiện quyết tâm và cam kết của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề này.

Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam chủ trương sẵn sàng đối thoại và mở rộng hợp tác để giải quyết các vấn đề về dân chủ, nhân quyền trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, tăng cường hiểu biết giữa các bên, thấy rõ và chia sẻ quan điểm và chính sách tốt đẹp về dân chủ, nhân quyền của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam./.

 

Thiếu tá, TS. LÊ DUY THẮNG

Trường Sĩ quan Chính trị

 

 


[1], 2 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 76, 100.

3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 134.

 

Ý kiến bạn đọc (0)

Cảnh giác với thủ đoạn "chuyển hóa" thế hệ trẻ của các thế lực thù địch
​​​​​​​Nhằm chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch, phản động đã không từ một thủ đoạn nào; trong đó, thế hệ trẻ là một trọng điểm của chúng. Đây là thủ đoạn rất nham hiểm nhằm thúc đẩy “diễn biến” để “chuyển hóa” thế hệ rường cột của nước nhà. Do đó, cần đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước.