QPTD -Thứ Ba, 04/02/2025, 10:50 (GMT+7)
Những thành tựu lý luận nổi bật của Đảng trong gần 40 năm đổi mới đất nước

Nhìn lại chặng đường gần 40 năm đổi mới, chúng ta có quyền tự hào về những thành tựu đất nước đã đạt được, nhất là về phát triển lý luận. Trong những thành tựu lý luận ấy, nổi bật hơn cả là lý luận về Đảng Cộng sản Việt Nam, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì cuộc họp Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng, tháng 8/2024. Nguồn: baochinhphu.vn

Thành tựu lý luận về Đảng Cộng sản Việt Nam

Đây là vấn đề nổi bật, được thể hiện rõ trên ba vấn đề cốt yếu là: lý luận về bản chất của Đảng; về nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và về Đảng lãnh đạo, cầm quyền.

Trung thành và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng Cộng sản, trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong bối cảnh đổi mới đất nước, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận thức về bản chất của Đảng được thể hiện rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”1. Điều đó không chỉ khẳng định rõ hơn về nhận thức, mà còn xác định trách nhiệm cao hơn của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, nhưng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống đó và toàn xã hội. Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng không phải là sự tự nhận, mà Đảng phải từ trong xã hội mà ra, được dân lập nên. Vì vậy, cơ sở xã hội của Đảng không chỉ là giai cấp công nhân, mà còn là nhân dân lao động và toàn dân tộc. Bản chất của Đảng, trong đó nổi rõ bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc là phù hợp với quy luật ra đời, phát triển của Đảng, vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng không có mục đích tự thân, mà vì giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc.

Đảng ta khẳng định, nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”, làm cơ sở lý luận chính trị, vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Bởi, đây là khoa học về những quy luật chung nhất sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, mang tính cách mạng nhất. Theo đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn kiên định, vận dụng sáng tạo và không ngừng đổi mới tư duy lý luận trên cơ sở nắm vững bản chất khoa học, cách mạng, phương pháp luận, nguyên lý cơ bản, những giá trị, ý nghĩa to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Vì thế, trong gần 40 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng tiếp tục khẳng định điều đó, kể cả khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào thoái trào tạm thời ở cuối thế kỷ XX và sự xuyên tạc, phủ nhận, đả kích quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị với những luận điệu, như: chủ nghĩa Mác – Lênin là lý luận sai lầm, đã lỗi thời, hoặc cáo chung, v.v.

Cùng với kiên định lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng ta nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh trong thành tố nền tảng tư tưởng, lý luận của mình để từ đó đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đây là một trong những điểm nổi bật nhất về nhận thức lý luận của Đảng trong gần 40 năm đổi mới. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn có bước phát triển trong nhận thức về tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Đại hội lần thứ IX (năm 2001), Đảng nêu ra khái niệm đầy đủ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của n­ước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại…”2. Đại hội lần thứ X (năm 2006), Đảng ta đánh giá: “… tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng đó đã dẫn dắt chúng ta trên mỗi chặng đường xây dựng và phát triển đất nước; là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam,… hôm nay và mai sau”3. Tiếp nối các đại hội sau, Đảng ta luôn khẳng định tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là nhân tố không thể thiếu trong tư tưởng và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện các nghị quyết của Đảng, coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Về Đảng cầm quyền, tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng, trong gần 40 năm qua, Đảng ta đã có những bước phát triển mới trong nhận thức lý luận về vấn đề hệ trọng này. (1). Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó Đảng là hạt nhân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội được thể hiện một cách toàn diện. (2). Đảng xác định rõ trách nhiệm của Đảng cầm quyền đối với nhân dân, đánh giá cao vai trò của nhân dân. Đảng cầm quyền là Đảng được nhân dân giao quyền, giao trách nhiệm lãnh đạo toàn xã hội để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho dân, cho Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. (3). Yêu cầu chung cho tất cả các thời kỳ hoạt động của Đảng, kể cả trước khi giành chính quyền và sau khi đã giành chính quyền là đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Trong tư cách của một Đảng Cộng sản cầm quyền, Đảng ta ngày càng nhấn mạnh tới việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.

Nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng đã xây dựng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Tiến hành tổng kết sự lãnh đạo của Đảng, chỉ ra những thành công, khuyết điểm, hạn chế và nêu ra những bài học lớn. Đồng thời, chỉ ra xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; nêu rõ các đặc trưng của xã hội - xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng: “... là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”4. Đảng nêu rõ phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và xác định mục tiêu tổng quát cách mạng Việt Nam khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

Trên cơ sở tổng hợp kết quả từ lý luận và thực tiễn trong nước, tình hình và kinh nghiệm quốc tế, Đảng ta bổ sung, phát triển một số vấn đề lý luận - thực tiễn với những tư duy mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là: (1). Mô hình phát triển tổng quát của nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (2). Có sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. (3). Chú trọng phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm. (4). Coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển. (5). Bản chất của nhà nước mới ở Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. (6). Đổi mới phương thức quản lý của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, hoàn thiện tổ chức của Nhà nước, mọi quyền lực tối cao đều thuộc về nhân dân, có sự thống nhất quyền lực và phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, coi trọng kiểm soát quyền lực Nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. (7). Khẳng định bản chất, tính cách mạng, tính tiên phong của Đảng, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng trong mọi hoàn cảnh. (8). Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng được yêu cầu của cách mạng.

Cùng với đó, Đảng bổ sung, phát triển lý luận về bảo đảm quốc phòng, an ninh, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt là bổ sung, phát triển lý luận, tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy trên cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đồng thời, hoàn thiện và nhận thức sâu sắc hơn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; coi lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Những thành tựu lý luận nổi bật của Đảng trong gần 40 năm đổi mới thể hiện sự kiên định, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đây tiếp tục là cơ sở khoa học, thực tiễn quan trọng để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG
_____________________
        

1 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 65, Nxb CTQGST, H. 2018, tr. 223.

2 - Sđd, Tập 60, H. 2016, tr. 178.

3 - Sđd, Tập 65, tr. 130.

4 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 70.

Ý kiến bạn đọc (0)

Tăng cường đoàn kết thống nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền để Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh
Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức đảng, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, vấn đề sống còn của cách mạng.