Thứ Sáu, 22/11/2024, 22:36 (GMT+7)
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, hiệu triệu đồng bào cả nước nhất tề đứng lên đánh quân xâm lược. Đây là lời Hịch non sông, tiếng vọng của lịch sử và là mạch nguồn xuyên suốt khẳng định khát vọng hòa bình và ý chí, quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.
Khát vọng hòa bình của dân tộc - mạch nguồn xuyên suốt “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Đó là thành quả lớn nhất mà dân tộc ta đã giành được sau gần một thế kỷ kiên trì đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột của đế quốc, thực dân. Thế nhưng, trong lúc chúng ta đang rất cần một môi trường hòa bình để dựng xây đất nước thì thực dân Pháp lại quyết tâm cướp nước ta một lần nữa. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn. Trung ương Đảng, Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đàm phán, nhân nhượng để tìm kiếm giải pháp hòa bình, nhưng đều bị thực dân Pháp khước từ. Trong thời khắc đó, việc giữ vững chính quyền cách mạng, bảo vệ nền hòa bình thiêng liêng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của dân tộc. Với trách nhiệm trước Tổ quốc, trước nhân dân, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” - khẳng định khát vọng hòa bình và ý chí, quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Nó còn chứa đựng thông điệp hết sức quý giá về khát vọng hòa bình cho dân tộc Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới, được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” kết tinh thiện chí, khao khát hòa bình của một dân tộc có truyền thống quật cường, bất khuất. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, khát vọng và mong ước hòa bình để xây dựng đất nước luôn là khát khao cháy bỏng. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” cũng bắt đầu bằng niềm mong ước ấy: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng”1. Chúng ta đã kiên trì, không bỏ qua bất cứ một cơ hội nào để thương lượng, đàm phán, kể cả việc cố gắng nhân nhượng đến mức có thể, nhằm tránh khỏi một cuộc chiến tranh. Hòa bình, hòa hiếu, hòa hợp, hòa đồng là những tố chất văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam đã được Hồ Chí Minh trân trọng, nâng niu. Khi buộc phải kêu gọi đồng bào toàn quốc cầm súng đứng dậy bảo vệ nền độc lập dân tộc, Người vẫn khởi xướng đối thoại thay cho đối đầu, vẫn nuôi dưỡng một nền hòa bình bền vững. Nhưng, muốn có hòa bình thì cả dân tộc phải bước vào một cuộc kháng chiến chính nghĩa ba ngàn ngày không nghỉ - nghịch lý nhưng hợp lý, bởi vì “chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”2. Đó là một sự thật - một nền hòa bình đã được toàn dân ta cố công tìm kiếm, gìn giữ ngay từ những ngày đầu giành, giữ chính quyền, cho đến khi buộc phải bước vào một cuộc chiến tranh không mong muốn - chiến tranh để hòa bình.
Thứ hai, thể hiện ý chí và quyết tâm sắt đá giành và giữ hòa bình, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”3. Để có hòa bình, nhân dân Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là đứng lên kháng chiến. Khát vọng giành độc lập dân tộc, hòa bình đất nước là cái đích đến của các cuộc đấu tranh giải phóng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là đỉnh cao của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”4. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” đã khái quát đầy đủ, sinh động đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp - toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”5. Đối với lực lượng vũ trang thể hiện tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”6. Đây chính là Lời hịch cứu nước, tiếng gọi thiêng liêng của non sông, thôi thúc cả dân tộc bước vào cuộc chiến đấu để giành độc lập, gìn giữ, bảo vệ hòa bình.
Thứ ba, khẳng định niềm tin tất thắng của dân tộc, hướng tới một nền hòa bình bền vững và phồn vinh, hạnh phúc. “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta. Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”7. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ cuộc chiến sẽ rất gian lao, lâu dài, phải trải qua gian khổ, hy sinh, nhưng khẳng định thắng lợi cuối cùng chắc chắn thuộc về dân tộc Việt Nam - đó là một tất yếu của lịch sử. Niềm tin của Người dựa vào sức mạnh của chiến tranh nhân dân; quy luật vận động, phát triển biện chứng của chiến tranh cách mạng theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; kinh nghiệm, truyền thống đấu tranh chống xâm lược của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử. Đây cũng chính là niềm tin vào lẽ phải, chính nghĩa, hướng tiến lên của lịch sử nhân loại tiến bộ. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta đã kết thúc bằng Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc chính quyền Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, để rồi sau đó là đánh thắng đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam 30/4/1975, non sông thu về một mối - Việt Nam độc lập, thống nhất. Đó là thắng lợi của sức mạnh, niềm tin vào lẽ phải, chính nghĩa, của khát vọng hòa bình, hòa hiếu, hòa hợp, hòa đồng.
Phát huy giá trị khát vọng hòa bình trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước hiện nay
Có thể khẳng định rằng: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” không chỉ là biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường, bất khuất và lòng quyết tâm chống ngoại xâm của dân tộc ta. Đây còn là Cương lĩnh về khát vọng hòa bình, tiếp thêm sức mạnh cho toàn dân tộc vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để tiếp tục phát huy những giá trị khát vọng đó vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định phát triển đất nước trong thời kỳ mới, cần tập trung thực hiện hiệu quả một số giải pháp cơ bản sau:
1. Tăng cường giáo dục lòng tự hào, tự tôn dân tộc, yêu chuộng hòa bình, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Tăng cường giáo dục, nuôi dưỡng khát vọng, thiện chí hòa bình, lan tỏa thông điệp hòa bình trên tinh thần độc lập dân tộc, hòa bình đất nước là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí tự cường, niềm tin, tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Phát huy cao độ truyền thống yêu nước và cách mạng, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, khát vọng phát triển thành một quốc gia giàu mạnh.
Tăng cường tuyên truyền những thành quả cách mạng mà đất nước đã giành được, củng cố niềm tin vững chắc của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia các cuộc vận động, các phong trào Thi đua yêu nước. Tạo mọi điều kiện để mỗi người dân được phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ.
2. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường quản lý, phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực. Tập trung quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc có hiệu quả, sớm đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống. Phát huy giá trị, thế mạnh tổng hợp các nguồn lực trong nước, bao gồm không chỉ có vốn, tài sản đã tích lũy được mà còn là tài nguyên chưa đưa vào sử dụng, là lợi thế về địa kinh tế, địa chính trị và quan trọng hơn hết là nguồn lực con người gắn với truyền thống văn hóa dân tộc. Tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
3. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. “Nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng,... xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”8. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Để đạt hiệu quả cần phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu.
4. Nêu cao tinh thần chủ động, cảnh giác cách mạng, kiên quyết giữ vững hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”9. Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của hoạt động đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển và nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo thế và lực mới để ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, kịp thời đối phó với những tình huống gây “đột biến”, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”; giữ vững nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược nhằm “thêm bạn, bớt thù”. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn diện cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận; trong đó, chú trọng xây dựng tiềm lực về chính trị, tinh thần, phát huy nhân tố con người là yếu tố có ý nghĩa quyết định nhất. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; thường xuyên nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, chủ động xử lý kịp thời, hiệu quả mọi tình huống, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược.
Thực hiện tốt những giải pháp nêu trên là thiết thực kế thừa, phát huy cương lĩnh khát vọng hòa bình của tinh thần toàn quốc kháng chiến, góp phần cổ vũ, động viên và tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước trên con đường đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
ThS. NGUYỄN QUANG BÌNH, Trường Sĩ quan Chính trị _______________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 534.
2, 3 - Sđd, tr. 534.
4 - Sđd, tr. 03.
5 - Sđd, tr. 534.
6 - Sđd, tr. 534.
7 - Sđd, tr. 534.
8 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG ST, H. 2021, tr. 34 - 35.
9 - Sđd, tr. 162.
Toàn quốc kháng chiến,khát vọng hòa bình
Hà Nội chung sức, đồng lòng phát triển thủ đô nhanh, bền vững theo hướng đô thị xanh, Thành phố thông minh, hiện đại 23/12/2021
Toàn quốc kháng chiến - bài học về xây dựng Quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới 19/12/2021
Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Công an nhân dân và Quân đội nhân dân trong tình hình mới 18/12/2021
Xã luận: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại 17/12/2021
Phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến, xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần của nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới 16/12/2021
Phát huy bài học về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong toàn quốc kháng chiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay 14/12/2021
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – Lời hịch thời đại Hồ Chí Minh 13/12/2021
Lực lượng vũ trang Quân khu 3, phát huy thắng lợi mở đầu toàn quốc kháng chiến, xây dựng tiềm lực quốc phòng vững mạnh 12/12/2021
Tuổi trẻ Việt Nam phát huy tinh thần “Quyết tử để tổ quốc quyết sinh” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 10/12/2021
Nghệ thuật bảo đảm hậu cần những ngày đầu toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội 10/12/2021