Thứ Bảy, 23/11/2024, 19:01 (GMT+7)
Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đó là Đảng ta đã làm tốt công tác vận động, tập hợp quần chúng trong một mặt trận thống nhất, tạo sức mạnh to lớn cho cuộc Tổng khởi nghĩa. Bài học đó đến nay còn nguyên giá trị và cần được tiếp tục phát huy.
Lịch sử cách mạng thế giới cho thấy, một trong những yếu tố làm nên thắng lợi hoặc thất bại của cuộc đấu tranh chống lại cường quyền, áp bức, bóc lột và xâm lược là phát huy vai trò của quần chúng nhân dân. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 nổ ra và giành thắng lợi là minh chứng rõ về điều đó. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng Bôn-sê-vích Nga đã quy tụ được khối quần chúng công nhân, nông dân nghèo, binh lính và người lao động, hợp thành lực lượng cách mạng đông đảo, đoàn kết, thống nhất xung quanh Đảng do V. I. Lê-nin đứng đầu, kiên quyết vùng lên đấu tranh, là cội nguồn sức mạnh vô địch làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười. Ngược lại, giai cấp tư sản Nga lúc bấy giờ nắm quyền lãnh đạo Chính phủ lâm thời ở Trung ương, thay vì đưa ra các chính sách tiến bộ, lại ban bố các chính sách đi ngược lại nguyện vọng và lợi ích của đông đảo nhân dân lao động, nên không được quần chúng nhân dân ủng hộ, dẫn đến thất bại, tạo điều kiện để Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Điều đó chứng tỏ, vai trò của quần chúng nhân dân là rất to lớn, một trong những yếu tố quyết định thắng lợi.
Nhận thức rõ điều đó, ngay sau khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng, tập hợp các lực lượng yêu nước tham gia cách mạng bằng những hình thức thích hợp trong một tổ chức liên minh - Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam. Nhờ đó, đã phát huy sức mạnh của cả dân tộc để thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng trong từng thời kỳ. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một minh chứng sinh động về công tác vận động quần chúng của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Để tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là Đảng phải có chủ trương, đường lối đúng đắn, phương pháp tổ chức phù hợp với tình hình thực tiễn cách mạng và đáp ứng ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Với tinh thần đó, tháng 5-1941, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về đoàn kết toàn dân tộc, tạo cơ sở để thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất, lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Đây là tổ chức “Chủ trương liên hiệp hết thảy các từng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở”1. Cuối năm 1941, trên tờ Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi: “Dân ta phải mau mau tổ chức lại. Nông dân phải vào “Nông dân Cứu quốc hội”. Thanh niên phải vào “Thanh niên Cứu quốc hội”. Phụ nữ vào “Phụ nữ Cứu quốc hội”. Trẻ con vào “Nhi đồng Cứu quốc hội”. Công nhân vào “Công nhân Cứu quốc hội”. Binh lính vào “Binh lính Cứu quốc hội”. Các bậc phú hào, văn sĩ vào “Việt Nam Cứu quốc hội”. Những hội ấy do Việt Nam độc lập đồng minh lãnh đạo. Người có tiền giúp tiền, kẻ có sức giúp sức. Đồng tâm hợp lực. Muôn người một lòng. Nhân cơ hội này mà khôi phục lại Tổ quốc, mà làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập"2.
Với việc xác định mục đích, tôn chỉ đúng đắn, đáp ứng nguyện vọng cháy bỏng của các giai cấp và tầng lớp nhân dân, Mặt trận Việt Minh đã thu hút đông đảo các lực lượng xã hội tham gia dưới các hình thức, như: Công nhân Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Tự vệ Cứu quốc, v.v. Đây là các tổ chức chính trị - xã hội có cơ cấu hoàn thiện và chặt chẽ từ Trung ương xuống các địa phương, thích hợp với mọi lứa tuổi, mọi thành phần xã hội và do đó đã vận động, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia, góp phần quan trọng vào chuẩn bị lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước. Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, trong đó xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là phát-xít Nhật và nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng Mặt trận Việt Minh để đoàn kết, vận động, tập hợp nhân dân tham gia cao trào kháng Nhật, cứu nước. Trong thời kỳ này, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, đề ra các khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn cách mạng. Đồng thời, phát động phong trào “Phá kho thóc để giải quyết nạn đói”, cứu dân, để nhân dân lao động - “những người cùng khổ” thấy rằng, muốn giành quyền sống thì nhất thiết phải đoàn kết dưới ngọn cờ Việt Minh, đấu tranh đánh đổ ách thống trị của phát-xít Nhật và bè lũ tay sai. Bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, khi quân Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ Tổng khởi nghĩa tới, đáp lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 14-8-1945, khởi nghĩa đầu tiên và thắng lợi tại Quảng Ngãi; ngày 19-8, khởi nghĩa và giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội; ngày 23-8, diễn ra ở Huế buộc địch phải đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị, đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền nhà nước phong kiến ở Việt Nam, v.v.
Như vậy, chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14 đến 28-8-1945), cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã thành công, chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, sự cai trị của phát-xít Nhật và lật nhào chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Thắng lợi này là kết quả của sự kiên trì, nỗ lực chuẩn bị lực lượng suốt 15 năm của Đảng và nghệ thuật tạo dựng thời cơ, nắm, chớp thời cơ tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến lên Tổng khởi nghĩa trên cả nước, nhưng trên hết là thắng lợi của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin về vai trò của quần chúng trong lịch sử vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là một điển hình đặc sắc về công tác vận động, tập hợp quần chúng của Đảng ta. Nó không chỉ là bài học sâu sắc và có ý nghĩa trong thời điểm đó, mà còn có giá trị to lớn, lâu dài, được Đảng ta vận dụng thành công trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng nước ta.
Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hơn 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Gắn bó máu thịt với nhân dân, với đồng bào các dân tộc, không chỉ là nguồn gốc, bản chất, truyền thống của Quân đội, là tình cảm sâu nặng, mà đó còn là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên, thể hiện bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” và đòi hỏi tất yếu trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội của dân, do dân, vì dân trong từng giai đoạn cách mạng. Thực hiện chức năng “đội quân công tác”, Quân đội luôn quán triệt sâu sắc quan điểm công tác quần chúng của Đảng và những bài học, kinh nghiệm của công tác này trong Cách mạng Tháng Tám để xác định nội dung, biện pháp tiến hành phù hợp. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước cả thời cơ và thách thức. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” và những hạn chế, tồn tại của ta trên các lĩnh vực để xuyên tạc, kích động, chống phá, hòng làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ và Quân đội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Quân đội với nhân dân. Cùng với đó, tình hình biên giới, biển, đảo, thiên tai, thảm họa, dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp; đời sống của bộ đội và một bộ phận nhân dân còn khó khăn,… đang đặt ra cho công tác dân vận những vấn đề mới cần quan tâm giải quyết. Vì thế, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị phải nhận thức đúng tình hình, bám sát định hướng của trên, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác dân vận, trong đó cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:
Trước hết, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy, người chỉ huy các cấp và cán bộ, chiến sĩ về vai trò, vị trí của công tác dân vận. Đây là vấn đề quan trọng, cần phải được thực hiện thường xuyên. Đặc biệt, trong dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, toàn quân cần tuyên truyền sâu rộng những kinh nghiệm tiến hành công tác vận động, tập hợp và phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; nhân rộng những mô hình, điển hình “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”, v.v. Trên cơ sở đó, vận dụng sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác dân vận trong tình hình mới. Yêu cầu của công tác tuyên truyền là làm cho mỗi cán bộ, chiến sĩ nhận thức đầy đủ ý nghĩa chiến lược của công tác dân vận; nắm vững mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay. Phải quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, ghi sâu lời dạy của Người: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”3. Từ đó, vận dụng cụ thể vào từng công việc, trên từng lĩnh vực, địa bàn, xây dựng mô hình dân vận phù hợp, hiệu quả. Công tác dân vận phải góp phần quan trọng vào phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng; củng cố vững chắc mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội với nhân dân; tạo động lực để nhân dân đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Công tác tuyên truyền, giáo dục phải được tiến hành thường xuyên, bằng nhiều hình thức, biện pháp, phương tiện, nhất là hệ thống thông tin đại chúng; gắn công tác tuyên truyền, giáo dục với đẩy mạnh hoạt động thực tiễn, nâng cao hiệu quả công tác dân vận; xây dựng lề lối, tác phong khoa học, bám sát cơ sở, địa bàn. Trong quá trình thực hiện công tác dân vận, cần chú trọng phát huy trách nhiệm của các cấp ủy và mọi cán bộ, đảng viên; kịp thời khắc phục nhận thức lệch lạc, vi phạm kỷ luật dân vận, làm ảnh hưởng đến mối quan hệ đoàn kết quân - dân.
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác dân vận. Sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp là yếu tố quyết định để công tác dân vận của Đảng trong Quân đội đạt hiệu quả thiết thực. Bởi vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng phải thực hiện nghiêm cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác này. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo; chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy chỉ đạo thực hiện; các cơ quan làm tham mưu; cơ quan chính trị làm trung tâm, cán bộ, chiến sĩ làm nòng cốt và phân công cấp ủy viên phụ trách công tác dân vận. Đồng thời, tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 25-NQ/TW (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”; Nghị quyết 49-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương “Về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới”; các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của các cấp về công tác dân vận; cụ thể hóa Chương trình hành động của Quân ủy Trung ương thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW và Chương trình hành động của Bộ Quốc phòng thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2013-2020 để ra nghị quyết chuyên đề, xây dựng chương trình, kế hoạch công tác dân vận của đơn vị. Tập trung làm tốt công tác xây dựng Đảng và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tăng niềm tin của nhân dân đối với Quân đội. Cấp ủy các cấp tăng cường giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ thái độ kính trọng dân, gần gũi dân, hiểu dân và trách nhiệm với dân, bằng chính việc làm, tư thế, tác phong, lối sống của cán bộ, chiến sĩ và đơn vị. Nội dung lãnh đạo công tác dân vận phải toàn diện, sát thực tế, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”4. Các đơn vị quân đội phải thường xuyên phối hợp với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương trong tổ chức thực hiện, bảo đảm cho công tác dân vận hoạt động có nền nếp, chất lượng và hướng mạnh về cơ sở.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hình thức công tác dân vận. Các cấp cần coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, xác định mặt làm được, chưa làm được; lựa chọn mô hình công tác tuyên truyền, vận động quần chúng có hiệu quả trong thực tiễn để xây dựng và nhân rộng. Trên cơ sở đó và căn cứ vào yêu cầu công tác dân vận hiện nay, các đơn vị tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp quần chúng nhân dân; duy trì, mở rộng hoạt động kết nghĩa, huấn luyện dã ngoại kết hợp làm công tác dân vận; củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của “Tổ công tác dân vận”; phát huy vai trò của dân quân tự vệ, các tổ, đội công tác liên ngành ở các địa bàn, cán bộ tăng cường cơ sở để tiến hành công tác dân vận. Đồng thời, thấm nhuần phong cách: “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; đẩy mạnh phong trào thi đua, nhân rộng mô hình “Dân vận khéo”, phát huy nguồn lực trong dân, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của dân để xây dựng cơ sở, địa bàn vững mạnh.
Thứ tư, thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cán bộ với chiến sĩ, cấp trên với cấp dưới. Công tác dân vận có vị trí, vai trò rất quan trọng. Để tiến hành tốt, phải tạo được sự đồng thuận của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ. Muốn làm có hiệu quả công tác vận động nhân dân, trước hết phải làm tốt công tác “dân vận” đối với cán bộ, chiến sĩ tại đơn vị. Để làm được điều đó, các cơ quan, đơn vị cần thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sở, quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, đời sống của bộ đội; giải quyết hài hòa các mối quan hệ; giữ vững sự đoàn kết, thống nhất, tạo môi trường thuận lợi để cán bộ, chiến sĩ phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành. Cán bộ chủ trì phải thực sự tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách; lời nói phải thống nhất với việc làm, gắn bó, gần gũi với đơn vị; có như vậy mới thu phục được cán bộ, chiến sĩ. Mặt khác, phải tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy chế, quy định về công tác dân vận; kết hợp chỉ đạo công tác này với thực hiện nhiệm vụ chính trị, bảo đảm mọi hoạt động đi vào nền nếp, khoa học, hiệu quả.
Thứ năm, tập trung xây dựng cơ quan dân vận các cấp vững mạnh toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận có phẩm chất, năng lực tốt. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải thường xuyên chú trọng củng cố, kiện toàn cơ quan dân vận; đồng thời, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận cả về trình độ lý luận, năng lực tham mưu, kỹ năng công tác và phẩm chất đạo đức, lối sống, bảo đảm cho họ thật sự tâm huyết với nghề nghiệp, thấu hiểu, đồng cam, cộng khổ, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân, thông hiểu tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán của từng dân tộc; khắc phục tình trạng đưa cán bộ phẩm chất, năng lực yếu và không có uy tín về làm công tác dân vận. Mỗi cán bộ làm công tác dân vận phải không ngừng tự học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, phương pháp, tác phong công tác, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao. Mặt khác, phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện những tập thể, cá nhân thực hiện tốt công tác dân vận để biểu dương, nhân rộng các điển hình và có hình thức phê bình, kỷ luật những cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm kỷ luật dân vận.
Bài học về công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với chúng ta. Bởi vậy, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp và đội ngũ cán bộ chuyên trách, những người trực tiếp làm công tác dân vận cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng phù hợp, đáp ứng tốt yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác dân vận, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Thượng tướng PHƯƠNG MINH HÒA, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam ______________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 149.
2 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 246.
3 - Sđd - Tập 6, tr. 234.
4 - Sđd - Tập 6, tr. 51.
Cách mạng Tháng Tám,vận động quần chúng
Hà Nội chung sức, đồng lòng phát triển thủ đô nhanh, bền vững theo hướng đô thị xanh, Thành phố thông minh, hiện đại 23/12/2021
Toàn quốc kháng chiến - bài học về xây dựng Quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới 19/12/2021
Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Công an nhân dân và Quân đội nhân dân trong tình hình mới 18/12/2021
Xã luận: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại 17/12/2021
Phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến, xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần của nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới 16/12/2021
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” - cương lĩnh về khát vọng hòa bình của dân tộc 15/12/2021
Phát huy bài học về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong toàn quốc kháng chiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay 14/12/2021
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – Lời hịch thời đại Hồ Chí Minh 13/12/2021
Lực lượng vũ trang Quân khu 3, phát huy thắng lợi mở đầu toàn quốc kháng chiến, xây dựng tiềm lực quốc phòng vững mạnh 12/12/2021
Tuổi trẻ Việt Nam phát huy tinh thần “Quyết tử để tổ quốc quyết sinh” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 10/12/2021