Những chủ trương công tác lớn Chuyên luận chỉ đạo

QPTD -Thứ Tư, 05/09/2012, 02:17 (GMT+7)
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hóa tại Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nguyên tắc tổ chức, phân công quyền lực nhà nước được xác định: “... là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”1.

Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một sáng tạo trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta về tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng và tổ chức quản lý xã hội nói chung. Từ chỗ cơ bản quan tâm đến các vấn đề bên ngoài của tổ chức quyền lực nhà nước (như kiện toàn tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước…), chúng ta đã coi trọng bản chất của nhà nước. Đó là việc xác lập nguyên tắc pháp quyền XHCN, coi trọng tính pháp quyền trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Từ nhận thức đúng đắn về nguyên tắc này, chúng ta ngày càng ý thức được đây là tinh hoa của khoa học tổ chức quyền lực nhà nước, quản lý xã hội của loài người và vận dụng sáng tạo, hài hòa với các nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của Nhà nước XHCN.

alt
Thành công của cuộc Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016 là một bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng, củng cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
 

Mặc dù còn không ít vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, soi chiếu thực tiễn để hoàn thiện lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN, song đến nay, cơ sở lý luận ban đầu đã hình thành. Theo đó, Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta có những đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nguyên tắc cơ bản này được khẳng định tại Hiến pháp năm 1992, gắn với cơ chế bảo đảm thực hiện ngày càng hoàn thiện. Thứ hai, ở đó quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thứ ba, Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, minh bạch, khả thi; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN. Thứ tư, Nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân, phát huy dân chủ, chịu sự giám sát của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương, trừng trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của xã hội và nhân dân. Thứ năm, Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; chăm lo cho hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Thứ sáu, Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Thứ bảy, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tổ chức, hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước.

Từ năm 1986 đến nay, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước đã có những đổi mới căn bản cả về lượng và chất; góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) từng thời kỳ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy; làm cho tổ chức và hoạt động của từng cấu trúc trong bộ máy được củng cố, từng bước đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế. Quốc hội được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh theo hướng tinh gọn, giảm đầu mối; tập trung vào hoạt động quản lý vĩ mô, giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng của cả nước. Tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, nhất là tòa án có một số chuyển biến tích cực. Bộ máy nhà nước được tổ chức thích ứng với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lực nhà nước ngày càng khoa học, cụ thể, chặt chẽ hơn; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nhờ vậy được tăng cường, niềm tin của nhân dân về “chỗ dựa quyền lực” thêm vững chắc... Đó là những nhân tố quan trọng hàng đầu, những tiền đề cơ bản để đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.            

Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đã đặt ra những nhiệm vụ liên quan đến xây dựng nền dân chủ XHCN; xác định rõ hơn vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước trong xã hội và việc bảo đảm phát huy các nguồn lực xã hội cùng tham gia phát triển đất nước. Theo đó, dân chủ XHCN được mở rộng, phát huy và bảo đảm thực hiện; hệ thống chính trị được hoàn thiện thêm một bước. Với sự bảo đảm của Nhà nước pháp quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên tiếp tục phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện dân chủ, xây dựng xã hội lành mạnh, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Nhà nước, tạo nên sự đồng thuận xã hội trong việc triển khai đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong bối cảnh thuận lợi đó, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố; sự phối hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại được chú trọng; chế độ XHCN, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh trật tự, an toàn xã hội được giữ vững trước những âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”.

Bản chất cốt lõi của quyền lực nhà nước là vấn đề quyền lực thuộc về ai, vì ai và tổ chức thế nào để đạt mục đích đó. Những thành tựu bước đầu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam khẳng định tính đúng đắn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức quyền lực nhà nước. Theo đó, quyền lực luôn thuộc về nhân dân, tập trung, thống nhất, không phân chia, phân cực, đối trọng mà có sự phân công, phối hợp.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội tiếp tục được phát huy. Với bản lĩnh lãnh đạo đã được tôi luyện, thử thách qua nhiều giai đoạn phát triển của cách mạng, lấy lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc làm mục đích tồn tại, Đảng ta đã luôn tự đổi mới tư duy lý luận, tổ chức và hoạt động, nội dung và phương thức lãnh đạo để ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Với tư cách là đảng cầm quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng nhà nước và thông qua nhà nước. Chính vì lẽ đó, chăm lo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những sứ mệnh cao cả của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Đảng ta đã ban hành 02 nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện khâu đột phá trong tiến trình hoàn thiện tổ chức quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã đề ra mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch. Trong đó, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực thi pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, mở rộng hội nhập quốc tế; xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đề ra các giải pháp đồng bộ nhằm vừa giải quyết những vấn đề bức xúc trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài vì mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, công bằng, phụng sự công lý, phục vụ Tổ quốc và nhân dân; tạo cơ sở quan trọng cho công cuộc cải cách tư pháp đi vào chiều sâu, đặc biệt là việc thay đổi về chất các thể chế, nguyên tắc, điều kiện bảo đảm độc lập xét xử và nâng cao năng lực, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ các chức danh tư pháp.

Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về xây dựng, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần thiết phải xây dựng các thiết chế quyền lực phù hợp. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền kinh tế đó, cơ chế thị trường cần được vận hành đầy đủ, linh hoạt để phát huy mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân, xóa đói giảm nghèo, tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường với sự tác động của nhiều yếu tố trong và ngoài nước, với sự tham gia ngày càng nhiều chủ thể thuộc nhiều thành phần kinh tế như hiện nay, Nhà nước phải bảo đảm và phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật để mọi công dân có nhu cầu, có điều kiện đều được tham gia hoạt động kinh doanh; mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế đều được coi trọng, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế; bảo đảm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt trái, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Trong điều kiện các quy luật thị trường chưa vận hành đồng bộ, nhà nước cần thực hiện “tròn vai” chức năng quản lý KT-XH, làm tốt vai trò “bà đỡ” cho sự ra đời của các loại thị trường, giúp cho thị trường vận hành thông suốt.

Thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hơn hai mươi năm qua cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu, làm tiền đề cho việc tiếp tục nghiên cứu, đúc kết thực tiễn, làm sâu sắc hơn lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN; bổ sung, làm giàu thêm lý luận về tổ chức quyền lực trong Nhà nước XHCN.

Trước hết, cần kiên trì học thuyết Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức quyền lực nhà nước; kiên trì mục tiêu Nhà nước XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mang lại lợi ích, tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng và cuộc sống hạnh phúc cho người dân. Đó cũng là chuẩn mực cao quý để đánh giá bản chất vì con người của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đây là điều mà ngay từ những năm 20 của thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến khi đề ra yêu cầu xây dựng Nhà nước, xây dựng xã hội trên nguyên tắc pháp quyền. Theo đó, mọi hành vi, mọi hoạt động ở mọi nơi, mọi lúc của bộ máy nhà nước, của từng công chức đều phải thể hiện được “... thần linh pháp quyền”2; ý thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật phải là yếu tố chi phối toàn bộ hoạt động của bộ máy công quyền; môi trường pháp chế phải trở thành yếu tố tự nhiên của xã hội.

Thứ hai, bám sát thực tiễn, giải quyết những vấn đề thực tiễn; kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn; bảo đảm mọi lý luận đều có khởi nguồn và là nhu cầu giải quyết các vấn đề thực tiễn. Càng giải quyết đúng đắn các đòi hỏi của thực tiễn thì tính pháp quyền XHCN của Nhà nước càng nhiều, lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN càng khẳng định sức sống của mình.

Thứ ba, cần tiến hành từng bước vững chắc, với lộ trình phù hợp để bảo đảm chắc chắn thành công. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề mới, chưa có tiền lệ, liên quan đến thể chế quản lý từ Trung ương đến địa phương, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống KT-XH. Vì vậy, không thể nóng vội, “rũ tung” vấn đề rồi sắp xếp lại, mà phải tìm cho được khâu đột phá; vừa làm, vừa rút kinh nghiệm để triển khai ở các khâu khác. Cụ thể, chúng ta dành ưu tiên cho việc hoàn thiện pháp luật, cải cách hành chính, nâng cao chất lượng tranh tụng của Tòa án và thành quả triển khai ở các lĩnh vực này đã tạo tiền đề thuận lợi để tiến hành những bước tiếp theo.

Với việc xác định xây dựng pháp luật là khâu đột phá và tập trung nguồn lực triển khai, trong thời gian không dài, hệ thống pháp luật của nước ta đã hình thành, điều chỉnh ngày càng sâu rộng các quan hệ phát sinh trong xã hội và đang bước vào giai đoạn hoàn thiện. Các chính sách của Nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống KT-XH đã được điều chỉnh ngày càng đầy đủ trong các đạo luật chuyên ngành. Năm 1991, nước ta mới có 92 luật, sắc lệnh, pháp lệnh (trong đó có 35 luật) chủ yếu tập trung điều chỉnh các lĩnh vực về tổ chức bộ máy, an ninh, quốc phòng, kinh tế... thì đến năm 2011, nước ta đã có 330 luật, pháp lệnh, điều chỉnh tương đối đầy đủ các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là các luật, pháp lệnh liên quan đến chế độ kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, quyền và nghĩa vụ của công dân... Cải cách hành chính, trước hết là cải cách thủ tục hành chính đã góp phần từng bước xây dựng nền hành chính tuân thủ pháp luật, trong sạch, trách nhiệm, gần dân, tinh gọn với các nội dung cơ bản là cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Mục tiêu của Chương trình là xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo các nguyên tắc pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN…

Thứ tư, tăng cường và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nhà nước, quyền lực nhà nước là các phạm trù chính trị - pháp lý. Lãnh đạo xây dựng Nhà nước, tổ chức quyền lực nhà nước là sứ mệnh chính trị của Đảng nhằm giữ vững bản chất của Nhà nước XHCN, bảo đảm thực hiện đúng đắn vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân.

Thứ năm, học tập có chọn lọc kinh nghiệm của các nước. Nhà nước pháp quyền là một giá trị tư tưởng được tích lũy trong lịch sử nhân loại, gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, ngăn ngừa, loại trừ chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật. Tuy nhiên, việc vận dụng tư tưởng này cần được thực hiện phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc. Đây cũng là vấn đề liên quan đến bài học bám sát thực tiễn nêu trên. Hiện nay, có một số người không thích nói đến “thực tế Việt Nam”, “đặc thù Việt Nam”, coi đó là sự ngụy biện cản trở hội nhập quốc tế. Họ cho rằng, cần lấy mô hình thành công của các nước tiên tiến để “áp dụng trọn gói” khi xây dựng các thiết chế nhà nước của Việt Nam. Tuy nhiên, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một sự nghiệp lớn, là một trong những vấn đề hệ trọng liên quan đến sự phát triển của đất nước, đến cuộc sống của nhân dân; vì vậy, không thể nôn nóng, chủ quan, khinh suất hoặc sao chép kinh nghiệm nước ngoài.

Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, chúng ta cần nắm vững các định hướng lớn sau:

- Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; xây dựng, bổ sung các thể chế, cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, tạo thành sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước.

- Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, cần đẩy mạnh việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội nhằm: một mặt, bảo đảm Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; mặt khác, tạo cơ chế phù hợp, có hiệu lực, hiệu quả để Quốc hội thực hiện tốt chức năng giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, tăng tính khả thi của pháp luật.

- Xác định rõ hơn vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt là mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; trách nhiệm, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc thực hiện chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân.

- Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp. Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ phù hợp với vị trí, tính chất đó của Chính phủ.

- Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Xác định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp; cần nghiên cứu thấu đáo cơ chế bảo vệ Hiến pháp, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

- Về chính quyền địa phương, cần xác định rõ hơn địa vị pháp lý, mô hình tổ chức, thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương; quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; tăng cường phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương nhằm bảo đảm sự điều hành, chỉ đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính tự chủ, tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ là công việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội là vấn đề cốt tử, là tiền đề quan trọng để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Đây là một sự nghiệp lớn, là quá trình lâu dài, nhưng phải tiến hành với nhịp độ khẩn trương, đòi hỏi sự phấn đấu nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn thể cán bộ, công chức và nhân dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân có vai trò hết sức quan trọng.

TS. Nguyễn Sinh Hùng

Ủy viên Bộ Chính trị,

Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

___________

1 - Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Nxb CTQG, H. 2002, tr. 13.

2 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 439.

 

Ý kiến bạn đọc (0)

Quân đội tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới
Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, trở thành một trong những trụ cột của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp - nền tảng vững chắc để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước