Thứ Năm, 24/04/2025, 11:56 (GMT+7)
Những chủ trương công tác lớn Tin tức - Thời sự
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) có tầm vóc và ý nghĩa lịch sử, quyết định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để. Từ đó đến nay, qua các kỳ đại hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước luôn được khẳng định trong thực tiễn.
Nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, Đại hội VI của Đảng đã quyết định sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy lý luận, tư duy kinh tế; coi đó là cơ sở khoa học để xác định đúng chính sách và cơ chế lãnh đạo, quản lý đất nước. Vấn đề quan trọng hàng đầu là phải nhận thức đúng các quy luật khách quan, những đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; nhất là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật giá trị và sản xuất hàng hóa, quy luật phân phối theo lao động,… để điều chỉnh vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI chỉ rõ: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”1. Ở nước ta, một thời kỳ dài đã tập trung xây dựng quan hệ sản xuất mới ở mức quá cao, nhất là về sở hữu (quốc doanh hóa, tập thể hóa) trong khi lực lượng sản xuất còn lạc hậu, trình độ quản lý còn hạn chế. “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”2.
Với tư duy mới, làm cơ sở để Đảng quyết định thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; đổi mới chính sách xã hội, hướng vào những giải pháp nhằm cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân, quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Chú trọng mở rộng quan hệ với các nước và tranh thủ thu hút vốn đầu tư của nước ngoài; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Đổi mới phương pháp, phong cách lãnh đạo của Đảng: khắc phục biểu hiện quan liêu, xa dân; kết hợp nói và làm, Nhà nước chú trọng quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp luật, nâng cao hiệu lực của kỷ luật, kỷ cương, pháp luật.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước tiếp tục có những quyết sách rất quan trọng để vượt qua khó khăn, thách thức mới nảy sinh, đưa đất nước phát triển. Những năm đầu đổi mới đã có những bước chuyển biến rất quan trọng. Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội khóa VIII thông qua tháng 12-1987, có hiệu lực từ ngày 01-01-1988. Ngày 05-4-1988, Bộ Chính trị (khóa VI) ban hành Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, giao ruộng đất cho các hộ nông dân sử dụng lâu dài, tạo bước phát triển lớn chưa từng có trong nông nghiệp. Kết quả là, từ một nước thiếu lương thực phải nhập khẩu, Việt Nam đã vươn lên tự chủ về lương thực, luôn là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Chính sách và cơ chế quản lý mới đã làm cho kinh tế khởi sắc, lạm phát được kiềm chế, giảm từ 774,7% năm 1986 xuống còn 60% năm 1990.
Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, công cuộc đổi mới được triển khai tích cực, Đại hội VII của Đảng (6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đại hội xác định đường lối đối ngoại: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Đó là bước phát triển mới về nhận thức lý luận, thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đất nước chuyển mạnh sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 1992, Đảng chủ trương đổi mới, chỉnh đốn, phát triển công tác lý luận của Đảng. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (01-1994) chủ trương thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện tốt các chính sách xã hội, nhất là xóa đói giảm nghèo, chính sách với người có công. Những vấn đề quan trọng đó tiếp tục được Trung ương bàn sâu và quyết định. Từ thực tiễn đổi mới, Đảng đã chỉ rõ 4 nguy cơ lớn: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ tham nhũng và nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) đánh giá thành công của 10 năm đổi mới, khẳng định đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và hoàn thành những mục tiêu đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội cũng ghi nhận Việt Nam đã ra khỏi tình trạng bị bao vây, cô lập, cấm vận với những thành công trong đối ngoại: thiết lập quan hệ với Cộng đồng châu Âu (1990), bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), với Mỹ (1995) và gia nhập ASEAN (1995). Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1991-1995 đạt mức cao (8,2%/năm). Trong nhiệm kỳ khóa VIII, Trung ương Đảng quyết định chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học - công nghệ (12-1996); chiến lược cán bộ (6-1997); đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (7-1998); tích cực thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia có trách nhiệm trong ASEM, APEC. Năm 1997, một khó khăn mới ảnh hưởng lớn đến đổi mới ở Việt Nam, đó là khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á và châu Á kéo dài đến năm 2000, vì vậy GDP của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000 ở mức 7%.
Thế giới bước vào thế kỷ XXI với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, hội nhập và toàn cầu hóa, nhưng cũng có nhiều diễn biến phức tạp và thách thức khó lường, như: chiến tranh cục bộ, xung đột lợi ích, khủng bố, v.v. Trước tình hình đó, Đại hội IX của Đảng (4-2001) chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đồng thời, tổng kết những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường phát triển và đổi mới đất nước. Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã có những nghị quyết chuyên đề quan trọng: xây dựng Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (2003); tăng cường xây dựng hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở; thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo, chính sách với người Việt Nam định cư ở nước ngoài; thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, v.v.
Đại hội X của Đảng (4-2006) tổng kết 20 năm đổi mới, làm rõ hơn những vấn đề lý luận, thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động lớn đến Việt Nam khi đất nước đang hội nhập sâu rộng. Với những thành tựu đã đạt được, “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”3. Cụ thể hóa những quan điểm của Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành những nghị quyết quan trọng về đổi mới tổ chức bộ máy, cơ quan Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị; về Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020; chính sách kinh tế khi Việt Nam là thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; đẩy mạnh cải cách hành chính; về xây dựng giai cấp công nhân, công tác thanh niên, xây dựng đội ngũ trí thức; vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, xây dựng nông thôn mới. Từ thực tiễn đổi mới và thực hiện Cương lĩnh 1991, Đại hội XI của Đảng (01-2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), tiếp tục làm rõ và khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với những quan điểm và phương hướng cơ bản. Đại hội cũng đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011-2020) với những mục tiêu dựa trên cơ sở đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ. Để ngăn chặn suy thoái kinh tế, Đảng chủ trương: ổn định kinh tế vĩ mô; kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội và lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ. Năm 2012, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) ban hành nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, kết hợp với thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Năm 2013, Trung ương chủ trương hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính trị; Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013; đẩy mạnh cải cách hành chính vì một nền hành chính hiện đại, minh bạch, có hiệu quả, chú trọng cải cách tư pháp. Các chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ được thực hiện tích cực. Tăng trưởng kinh tế khá, năm 2015, GDP đạt 6,5%, kiểm soát được lạm phát, ổn định đời sống nhân dân. Từ năm 2011, tình hình Biển Đông diễn biến căng thẳng, phức tạp, chủ quyền biển đảo của Việt Nam bị xâm phạm; “An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Bảo vệ chủ quyền quốc gia đứng trước nhiều thách thức”4. Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trải qua 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã khẳng định những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996), vượt qua tình trạng một nước nghèo, kém phát triển (2008); đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trưởng kinh tế khá; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những nhận thức rõ và đầy đủ hơn vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Không ngừng xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Thực hiện các chính sách xã hội ngày càng tốt hơn, nhất là chính sách xóa đói giảm nghèo, tỉ lệ hộ đói nghèo giảm từ 58% (năm 1993) xuống còn dưới 5% (năm 2015). Phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng con người được chú trọng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch, bảo đảm ổn định chính trị, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng rộng mở, đến năm 2015, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 186 nước trong 193 nước thành viên Liên hợp quốc; quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước. Thực hiện nhất quán và thành công “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”5. Nhận thức về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường phát triển đất nước ngày càng rõ hơn, có cơ sở khoa học và hiện thực.
Thành tựu to lớn cần được khẳng định, song cũng cần thấy rõ những hạn chế yếu kém. Nền kinh tế Việt Nam quy mô còn nhỏ, chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh còn thấp. Nhận thức về quan hệ sản xuất cần được nghiên cứu làm rõ, nhất là vấn đề sở hữu. Phân hóa giàu nghèo tăng lên với chênh lệch ngày càng cao. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, văn hóa, đạo đức có mặt xuống cấp. Hệ thống chính trị còn cồng kềnh, kém hiệu quả, hiệu lực lãnh đạo, quản lý còn hạn chế. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được khắc phục như mong muốn. Bốn nguy cơ Đảng ta đã cảnh báo vẫn tồn tại và có mặt phức tạp hơn, nhất là tình trạng tham nhũng, lãng phí và sự chống phá của các thế lực thù địch.
Đại hội XII xác định rõ quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ mới: tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
PGS, TS. NGUYỄN TRỌNG PHÚC - ThS. LƯU THỊ HÀ _________________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 47, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 363.
2 - Sđd - tr. 390.
3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2007, tr. 68.
4 - ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2013, tr. 73.
5 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 83-84.
Việt Nam,sự nghiệp đổi mới
Thượng tướng Trịnh Văn Quyết: Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện sắp xếp tổ chức quân sự địa phương 23/04/2025
Tổng Bí thư Tô Lâm thăm và làm việc với Binh chủng Tăng thiết giáp 23/04/2025
Chủ tịch nước: Lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của người dân để tạo sự đồng thuận 22/04/2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính: 5 kết quả đồng thuận mà Hội nghị P4G đã đạt được 18/04/2025
Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp xúc cử tri Hà Nội trước kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV 17/04/2025
Chủ tịch nước Lương Cường tiếp Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone 17/04/2025
Bộ trưởng Phan Văn Giang hội đàm với Bộ trưởng Đổng Quân 17/04/2025
Thượng tướng Trịnh Văn Quyết làm việc với Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội 16/04/2025
Đại tướng Phan Văn Giang làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lạng Sơn 16/04/2025
Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Trung Quốc lần thứ 9 chính thức bắt đầu 16/04/2025
Chủ tịch nước Lương Cường dự Lễ kỷ niệm 90 năm Ngày truyền thống Dân quân tự vệ Việt Nam
Thư của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi các đồng chí sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp tham gia khắc phục hậu quả động đất tại Myanmar
Đẩy mạnh hợp tác giữa hai đảng cầm quyền ở Việt Nam và Singapore
Chủ tịch nước Lương Cường: Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị với Burundi
Thượng tướng Trịnh Văn Quyết làm việc với Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội
Đại tướng Phan Văn Giang dự Lễ tuyên dương Gương mặt trẻ tiêu biểu, Gương mặt trẻ triển vọng toàn quân năm 2024
Tạo đột phá mới cho quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam-Singapore
Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Trung Quốc lần thứ 9 chính thức bắt đầu