QPTD -Thứ Tư, 09/05/2018, 10:22 (GMT+7)
Tháng 5: Lời Bác Hồ dạy
Toàn cảnh phiên họp Ban Tổ chức Nhà nước Kỷ niệm 70 năm Ngày Bác Hồ ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11-6-1948 - 11-6-2018).

Ngày 01-5-1952: Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thì đua là những người yêu nước nhất”1. Đây là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài phát biểu khai mạc Đại hội các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc năm 1952.

Sau 4 năm phát động, từ năm 1948 đến năm 1952, phong trào thi đua ái quốc đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Để tiếp tục cổ vũ, tuyên dương và mở rộng phong trào thi đua, từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 06 tháng 5 năm 1952, tại Việt Bắc, Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đuạ và cán bộ gương mẫu đã được tổ chức. Đại hội vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, người khởi xướng phong trào thi đua ái quốc đến dự và phát biểu; Bác đặc biệt nhấn mạnh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết một lòng, đem hết sức mình tham gia kháng chiến và kiến quốc thành công. Từ đó phong trào thi đua đã phát triển ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng qua các thời kỳ, trong các tầng lớp nhân dân và các lực lượng vũ trang, với nhiều nội dung phong phú và hình thức sinh động, góp phần quan trọng vào việc động viên sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực hiện lời Bác dạy, phong trào thi đua yêu nước đã được cụ thể hoá thành phong trào thi đua Quyết thắng trong quân đội cổ vũ, động viên, khích lệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân hưởng ứng góp phần thực hiện tốt các khâu đột phá, khắc phục khâu yếu, mặt yếu, khơi dậy ý thức tự lực tự cường, vượt qua khó khăn, thách thức, phát huy truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” và phẩm chất cao đẹp "Bộ đội Cụ Hồ" hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Toàn quân xuất hiện ngày càng nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trên các lĩnh vực công tác, trực tiếp góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Ngày 02-5-1959: “Đảng và Chính phủ lúc nào cũng chú ý đến đồng bào vùng cao và càng ngày càng hết sức chú ý giúp đỡ đồng bào nhiều hơn nữa”2. Đó là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại buổi nói chuyện với Đoàn đại biểu các dân tộc ít người về dự lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động, ngày 01 tháng 5 năm 1959 tại Thủ đô Hà Nội.

Đây là giai đoạn miền Bắc đang đẩy mạnh phong trào tổ đổi công, tiến dần lên hợp tác xã; trong đó, đồng bào các dân tộc ít người là lực lượng chủ yếu trong phát triển phong trào ở miền núi. Lời khẳng định của Bác thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Chính phủ trong thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, nhất là đoàn kết với đồng bào các dân tộc ít người và trách nhiệm của Đảng, Chính phủ đối với việc thực hiện chính sách đó, góp phần cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào ở vùng cao.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước đã quan tâm với việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn đối với đồng bào vùng cao, vùng dân tộc ít người; trong đó: Chú trọng phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể từng vùng, đảm bào cho đồng bào các dân tộc phát huy thế mạnh của địa phương, làm giàu cho mình và cho xã hội; ưu tiên phát triển giáo dục, coi trọng việc đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số; tôn trọng và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của từng dân tộc...

Học tập và làm theo lời Bác dạy, Quân đội đã thường xuyên quan tâm làm tốt công tác đào tạo, tuyển dụng con em các đồng bào dân tộc ít người với việc mở các lớp đào tạo thiếu sinh quân tạo điều kiện thuận lợi cho con em đồng bào học tập và công tác trong quân đội. Các đơn vị có bộ đội với nhiều dân tộc khác nhau, luôn lãnh đạo tốt việc xây dựng mối đoàn kết, gắn bó giữa cán bộ, chiến sĩ người kinh với người dân tộc; làm tốt công tác phân loại đối tượng huấn luyện, giáo dục để nâng cao chất lượng huấn luyện đối với bộ đội là con em dân tộc ít người. Đặc biệt, thực hiện chức năng đội quân công tác, các đơn vị quân đội luôn chủ động phối hợp tốt với cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể địa phương vùng cao, vùng sâu, vùng xa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; tích cực tham gia triển khai các chương trình, dự án xây dựng đơn vị kinh tế quốc phòng, gắn với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đẩy mạnh phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, cuộc vận động “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”, chương trình “Bò giống giúp người nghèo biên giới”, chương trình “Nâng bước em tới trường”, “Tết Biên phòng, ấm lòng dân bản”... góp phần xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời sống cho đồng bào, củng cố, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, thế trận quốc phòng toàn dân góp phần quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, thực hiện điều mong muốn của Người “đưa miền núi tiến kịp miền xuôi”.

Ngày 03-5-1948: Toàn dân đoàn kết muôn năm.

Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”3. 

Là lời kêu gọi đồng bào Cao Đài, Hòa Hảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đăng trên Báo Cứu quốc, chi nhánh số 6, số 917, ngày 03 tháng 5 năm 1948.

Trong bối cảnh một số đồng bào theo đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo bị thực dân Pháp và các giáo sĩ phản động mua chuộc, lôi kéo, bắt làm lính, chống lại cách mạng, đi ngược lại lợi ích và truyền thống tốt đẹp của dân tộc... sau khi được vận động, giáo dục đã thức tỉnh, quay súng trở về với cách mạng, với Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết lời kêu gọi để kịp thời biểu dương những anh em đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo lầm đường theo địch, nay đã tỉnh ngộ; đồng thời, tập họp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân xâm lược.

Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh, tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn, chiến thắng giặc ngoại xâm và giành thắng lợi có ý nghĩa lịch trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng bào theo các tôn giáo đã đoàn kết cùng đồng bào cả nước thực hiện ước nguyện của Bác Hồ là xây dựng đất nước ta “Sánh vai với các cường quốc năm châu”. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận đều chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng đường hướng hành đạo riêng, phù hợp với đạo lý của mình, như: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo; “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” của Công giáo; “Sống Phúc âm phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc” của Hội thánh Tin Lành; “Nước vinh, Đạo sáng” của Cao Đài... tất cả vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thực hiện lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã luôn đoàn kết, gắn bó với nhau như ruột thịt, trên tình thương yêu giai cấp, hết lòng giúp đỡ nhau, lúc thường cũng như lúc ra trận; không phân biệt dân tộc, tôn giáo, vùng miền... Đây chính là nhân tố có vị trí quan trọng bậc nhất tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội ta. Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tốt việc xây dựng tinh thần đoàn kết gắn bó giữa cán bộ với chiến sĩ, đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo trong tình thương yêu đồng chí, đồng đội, thực hiện toàn quân một ý chí. Bên cạnh đó, quân đội còn luôn thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, làm tốt công tác dân vận, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo, kiên quyết đấu tranh với các thế lực thù địch tuyên truyền, chống phá chính sách đại đoàn kết của Đảng, Nhà nước... góp phần quan trọng xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng, yêu mến dành tặng cho danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.

Ngày 04-5-1957: “Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có. Vì vậy người có công trạng không nên tự kiêu mà cần khiêm tốn”4.

Là lời căn dặn của Chủ tịch trong bài nói chuyện tại lớp chỉnh huấn cán bộ trung, cao cấp Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục vào tháng 5 năm 1957.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung, cán bộ quân đội nói riêng về “đức” và “tài”; trong đó, Bác luôn lấy “đức” làm gốc và đề cao đức tính khiêm tốn. Bởi khiêm tốn là một trong những đức tính quan trọng nhất của con người. Người khiêm tốn luôn là người biết mình, hiểu người, không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công, thành tích của cá nhân, cũng không bao giờ chấp nhận một tinh thần chủ bại mang nhiều mặc cảm của cuộc đời đối với mọi người. Khiêm tốn sẽ giúp mỗi người có được sự tỉnh táo, để nhận thức chân lý một cách đúng đắn, khách quan; đồng thời nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của mọi người. Khiêm tốn luôn là một đức tính tốt mà mỗi người cần trau dồi, rèn luyện, đặc biệt đối với người cán bộ, đảng viên, những người lập được thành tích, công trạng lớn.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn đề cao và thực hành đức tính khiêm tốn trong sinh hoạt, học tập, công tác và chiến đấu, trở thành một nét đẹp văn hóa ẩn sâu trong nhân cách người quân nhân cách mạng, trở thành lời thề danh dự “... thắng không kiêụ, bại không nản” được nhân dân luôn tin tưởng, yêu mến, dành tặng cho danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.

Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” cán bộ, chiến sĩ toàn quân nêu cao tinh thần, trách nhiệm, thi đua “rèn đức, luyện tài”, tích cực “tự soi, tự sửa”, “Làm việc theo chức trách, nêu gương trong hành động”, đoàn kết tốt, khiêm tốn, học hỏi, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đối với đội ngũ cán bộ chủ trì, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị học và làm theo Bác luôn gương mẫu, đi đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đề cao tính khiêm tốn, học hỏi, rèn luyện tác phong lãnh đạo, chỉ huy dân chủ, quần chúng, luôn tôn trọng và chân thành lắng nghe, tiếp thu sự phê bình từ cấp dưới và quần chúng. Kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tự kiêu, tự đại, độc tôn chân-lý, cửa quyền, hách dịch, thờ ơ, vô cảm...

Ngày 05-5-1948: “Nay chúng ta cũng già trẻ một lòng, trường kỳ kháng chiến, chúng ta nhất định sẽ đánh tan giặc Pháp”5.

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi đội lão du kích, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, ngày 5 tháng 5 năm 1948. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta đang trên đà thắng lợi với các chiến thắng Việt Bắc, Thu Đông năm 1947 và đang chuẩn bị mọi điều kiện để chuẩn bị cho tổng phản công. Bác khẳng định: “Tổ tiên ta đời Trần, vì già trẻ một lòng trường kỳ kháng chiến, mà đánh tan giặc Nguyên. Nay chúng ta cũng già trẻ một lòng, trường kỳ kháng chiến, chúng ta nhất định sẽ đánh tan giặc Pháp”. Lời dạy của Bác đã cổ vũ, khích lệ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, không phân biệt nam hay nữ, già hay trẻ đều một lòng, một dạ quyết tâm trường kỳ kháng chiến đánh thắng thực dân Pháp xâm lược giành thắng lợi trong công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay, thực hiện lời Bác dạy, quân và dân ta đã luôn đoàn kết, tin tưởng, kiên định với đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đã và đang đạt được những thành tựu quan trọng, uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng tăng cao trên trường quốc tế.

Vinh dự, tự hào được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, Quân đội ta luôn trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế vô sản, rèn luyện ý chí chiến đấu, đoàn kết một lòng, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Trong giai đoạn hiện nay, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phát huy truyền “quyết chiến, quyết thắng”, toàn quân tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, đề cao cảnh giác, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Tích cực tham gia vận động, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng thế trận lòng dân ngày càng vững chắc, cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngày 06-5-1950: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn”6.

Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập năm 1950. Trong điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng chế độ xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác huấn luyện và học tập. Từ việc xác định mục đích của việc học tập, Người đề ra yêu cầu, địa chỉ rõ ràng để mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên phấn đấu học tập, rèn luyện thường xuyên, hướng tới mục tiêu phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Lời dạy của Người có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, xác định, rõ tầm quan trọng của việc học tập, nhất là học ở nhân dân, đó là môi trường học tập rộng lớn nhất, toàn diện nhất và hiệu quả nhất. Nhân dân không chỉ là đối tượng lãnh đạo, mà còn là người thầy lớn, giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên tiếp cận những kiến thức bổ ích, thiết thực trên mọi phương diện công tác và trong cuộc sống, vì “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.

Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, khi mọi tri thức đều có thể được số hóa, được cập nhật qua các phương tiện truyền thông hiện đại một cách nhanh chóng, phong phú, đa dạng, thì lời Bác dạy vẫn còn nguyên giá trị đối với việc học tập, nhất là học ở nhân dân. Trong xây dựng, hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, những ý kiến và trí tuệ của nhân dân luôn được Đảng, Nhà nước ta coi trọng, gợi mở ra nhiều điều mới mẻ, sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề quan trọng của đất nước, trên tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân ủng hộ, dân giúp đỡ”.

Quân đội nhân dân Việt Nam, một đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, càng thấm nhuần hơn nữa lời dạy của Người trong nhiệm vụ học tập, nâng cao trình độ tư duy lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật, làm chủ vũ khí, phương tiện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân càng phải gần gũi nhân dân, giúp đỡ nhân dân, dựa vào nhân dân và học hỏi nhân dân, để xứng đáng với tình cảm, sự quý trọng của nhân dân giành cho “Bộ đội Cụ Hồ”.

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải luôn gương mẫu đi đầu trong tự học, tự rèn, học tập suốt đời; gần gũi với cấp dưới, với bộ đội, khiêm tốn, chân thành học hỏi cấp dưới, học hỏi nhân dân, nhất là những điều còn thiếu; thật sự là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết, xây dựng quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Ngày 07-5-1958: “Lý luận kết hợp với thực hành, học tập kết hợp với lao động”7.

Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội Sinh viên Việt Nam lần thứ II, năm 1958. Lời dạy của Người đối với sinh viên Việt Nam diễn ra trong bối cảnh miền Bắc đang thực hiện Kế hoạch 3 năm lần thứ Hai (1958- 1960). Cùng với các lĩnh vực khác, trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, cũng có những vấn đề mới trong thực tiễn đặt ra, đòi hỏi phải kịp thời chấn chỉnh, định hướng; Bác đã chỉ rõ: “Lao động trí óc mà không lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà không thực hành thì cũng là tri thức có một nửa. Vì vậy, cho nên các cháu trong lúc học lý luận cũng phải kết hợp với thực hành”. Lời dạy của Người chỉ ra phương châm giáo dục đào tạo bao hàm cả lý luận và thực tiễn, lý thuyết với thực hành, Người xác định lao động là quyền, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân đối với Tổ quốc. Ai cũng phải tùy khả năng của mình mà tự nguyện, tự giác tham gia lao động, góp phần xây dựng nước nhà. Mỗi người phải nhận rõ: Lao động là vinh quang, lao động chân tay hay lao động trí óc đều là vẻ vang, đáng quý. Do vậy, học tập phải kết hợp với lao động, sản xuất, v.v.

Học tập và làm theo lời Bác dạy, công tác huấn luyện, đào tạo trong Quân đội luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc với việc ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác huấn luyện, công tác giáo dục đào tạo và được cụ thể hóa thành 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong huấn luyện; trong đó, xác định lý luận liên hệ với thực tiễn, lý thuyết đi đôi với thực hành, lấy thực hành làm chính. Kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện, kiểm tra và diễn tập các cấp có bắn đạn thật để không ngừng nâng cao chất lượng tổng họp đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Kết quả công tác huấn luyện, đào tạo được xác định là một tiêu chí quan trọng, là thước đo để đánh giá năng lực lãnh đạo, chỉ huy của cấp ủy, chỉ huy các cấp. Bên cạnh việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân chiến đấu, quân đội luôn coi trọng và tiến hành có hiệu quả chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất trong tình hình mới.

Ngày 08-5-1954: “Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch”8.

Trích trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ngày 08 tháng 5 năm 1954 khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc đã chiến thắng vẻ vang ở Điện Biên Phủ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 07 tháng 5 năm 1954 đã kết thúc hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp xâm lược đối với nước ta và cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới và trở thành chân lý của thời đại: “Một dân tộc dù nhỏ bé, nếu biết quyết tâm, đoàn kết chiến đấu và có một đường lối đúng thì có thể đánh bại được bất cứ tên đế quốc sừng sỏ nào”. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã ghi thêm một trang sử oanh liệt trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, nối tiếp những thắng lợi trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, được ví như những chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỷ XX.

Ngay sau ngày vui lớn của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong, đồng bào Tây Bắc; đồng thời căn dặn quân và dân ta chớ kiêu ngạo, khinh địch... thể hiện tầm nhìn và dự báo chiến lược của Bác đối với cách mạng nước ta. Khắc ghi lời Bác dạy, quân và dân ta luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không chủ quan, khinh địch, không tự kiêu, tự đại với những chiến công và thành tích, đã viết tiếp vào trang sử vàng dân tộc một chiến thắng vĩ đại trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, thu giang sơn về một mối, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.

Ngày nay, hòa bình, hữu nghị, hợp tác là xu thế chủ đạo, song tình hình thế giới, khu vực vẫn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, đất nước ta đứng trước thời cơ và thách thức mới. Thấm nhuần lời căn dặn của Bác năm xưa cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn chủ động quán triệt nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, nhất là đường lối quân sự, quốc phòng, đề cao cảnh giác, nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ và khả năng chiến đấu, làm chủ các loại vũ khí trang bị, chủ động phát hiện và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm an ninh, trật tự, tạo môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước.
_____________________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập -  Tập 7, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 402-410.

2 - Sđd - Tập 12, tr. 199.

3 - Sđd - Tập 5, tr. 516.

4 - Sđd - Tập 10, tr. 588.

5 - Sđd - Tập 5, tr. 518.

6 - Sđd - Tập 6, tr. 361.

7 - Sđd - Tập 11, tr. 400.

8 - Sđd - Tập 8, tr. 466.

Ý kiến bạn đọc (0)