Những chủ trương công tác lớn Chuyên luận chỉ đạo

QPTD -Thứ Hai, 17/08/2015, 15:27 (GMT+7)
Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9
Tuyên Quang trong Cách mạng Tháng Tám và những vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Sáng ngày 15-8-2015, tại thành phố Tuyên Quang, Tỉnh ủy Tuyên Quang phối hợp với Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức Hội thảo khoa học “Tuyên Quang – Thủ đô Khu giải phóng trong Cách mạng Tháng Tám và Cách mạng Tháng Tám với công cuộc đổi mới đất nước”. Đại tướng Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã gửi tham luận đến Hội thảo. Tạp chí Quốc phòng toàn dân trân trọng giới thiệu bài viết quan trọng này.

Sinh viên Trường Đại học Tân Trào trước Tượng đài "Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Tuyên Quang"

Năm nay, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kỷ niệm trọng thể 70 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2015) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2015). Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với dân tộc và thời đại. Đồng thời, là dịp tốt để chúng ta nhìn lại chặng đường cách mạng 70 năm qua, giáo dục truyền thống, khí phách dân tộc, nhất là đối với thế hệ trẻ tự hào về dân tộc Việt Nam anh hùng, tự hào về Đảng quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trong đó có thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Đặc biệt, kỷ niệm sự kiện trọng đại này diễn ra vào thời điểm vừa kết thúc thành công Kỳ họp thứ chín Quốc hội khóa XIII, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và đang tiến hành Đại hội đảng các cấp; cả nước đang nỗ lực phấn đấu để hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu còn lại của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010 - 2015 và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Mục đích chính của cuộc Hội thảo khoa học này là nhằm đánh giá, khẳng định tầm vóc, ý nghĩa, những bài học thành công của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 02/9, trên cơ sở đó phát huy hiệu quả trong điều kiện mới của đất nước. Trong Hội thảo, chúng ta cũng cần khẳng định vai trò quan trọng của Khu giải phóng, trong đó Tuyên Quang là trung tâm, nơi cội nguồn để từ đây Trung ương Đảng, Chính phủ hoạch định đường lối cách mạng và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó. Cuộc Hội thảo này đối với Tuyên Quang với vị trí “Thủ đô giải phóng”, vì thế càng mang nhiều ý nghĩa và đó sẽ là nguồn động lực to lớn để Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc trong Tỉnh tiếp tục phát huy, nỗ lực phấn đấu đạt những thành tựu mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Bảy mươi năm đã qua đi kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng sự kiện vĩ đại đó sẽ mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân ta, dân tộc ta. Cách mạng Tháng Tám đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc và cách mạng vô sản thế giới, một Đảng mác-xít mới 15 tuổi đã lãnh đạo thực hiện thành công cuộc cách mạng vĩ đại, đập tan xiềng xích của chính quyền nhà nước thực dân - phong kiến đã tồn tại gần một trăm năm, giành chính quyền về tay nhân dân, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Thắng lợi đó, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển nước ta, dân tộc ta; đồng thời, tạo nguồn cổ vũ, động viên to lớn cho phong trào giải phóng dân tộc, nhất là các dân tộc thuộc địa trên thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của quá trình vận động cách mạng rộng lớn do Đảng ta lãnh đạo, gồm ba thời kỳ: Thứ nhất, là cuộc vận động dân chủ tư sản năm 1930 - 1931, đỉnh cao là phong trào Xô-viết Nghệ - Tĩnh; thứ hai, là cuộc vận động dân chủ sâu rộng từ năm 1936 đến năm 1939 đã tập hợp được hàng triệu quần chúng đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải thiện dân sinh và bảo vệ hòa bình thế giới; thứ ba, là cuộc vận động giải phóng dân tộc của Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc từ cuối năm 1939 đến năm 1945, cùng các hoạt động chỉ đạo chuẩn bị về mọi mặt cho khởi nghĩa vũ trang, tiến tới Tổng khởi nghĩa. Điều đó được biểu hiện rõ trong sự chuyển hướng chiến lược cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng được xác định tại các Hội nghị Trung ương lần thứ 6, 7, nhất là Hội nghị Trung ương 8 (năm 1941). Thay vì thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ phản đế, phản phong, Hội nghị khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”, “Nếu không đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của dân tộc chẳng những phải chịu kiếp ngựa trâu muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được”, rằng: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc”1. Quyết định sáng suốt, kịp thời đó thể hiện sâu sắc tư duy, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Đảng ta, đã vận dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vấn đề giải phóng dân tộc, phù hợp với tình thế đất nước và tình hình cách mạng nước ta lúc bấy giờ. Nó chẳng những đáp ứng nguyện vọng sâu xa của các tầng lớp nhân dân, của toàn thể dân tộc, mà điều quan trọng là sự định hướng, chỉ đạo cách mạng tập trung vào mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc; trong đó, chính quyền là vấn đề cơ bản nhất. Dưới ánh sáng của đường lối dân tộc, dân chủ, Đảng ta đã tích cực tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, xây dựng thực lực cách mạng, chuẩn bị mọi mặt để khi thời cơ đến tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân.

Cùng với xác định đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp, Đảng ta đã có sự chỉ đạo chiến lược, sách lược sắc sảo, vận dụng phương pháp cách mạng linh hoạt, sáng tạo nên đã phát huy cao nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Điều đó được thể hiện bằng nhiều chỉ thị, quyết sách, như: Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thực hiện giảm tô, giảm tức; tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian phản quốc; đồng thời, lập ra Mặt trận Việt Nam đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) và các tổ chức cứu quốc để tập hợp lực lượng cách mạng, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, miễn là có tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc. Điều đó thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng ta về dân tộc và vai trò quần chúng, dựa vào dân, “lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp cách mạng. Thông qua các chính sách và hoạt động của Mặt trận Việt Minh, Đảng ta đã tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc với nền tảng là liên minh công nông, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, quy tụ, tập hợp lực lượng cách mạng, dấy lên phong trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp, tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất của cả nước để thực hiện thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám.

Cuối năm 1941 đầu năm 1942, cục diện chiến tranh thế giới chuyển biến mau lẹ. Ở Đông Dương, mâu thuẫn giữa bọn Nhật - Pháp ngày càng sâu sắc, không thể điều hòa được. Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”2. Hình thái của cuộc khởi nghĩa vũ trang phải từ khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa địa phương đi tới khởi nghĩa toàn quốc phát triển thành cao trào - Tổng khởi nghĩa. Để thực hiện chủ trương đó, việc tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa được hết sức chú trọng và triển khai ngay từ sau khi Đảng ta ra đời (năm 1930). Cùng với việc đẩy mạnh phong trào chính trị của quần chúng và xây dựng các tổ chức chính trị, các mặt trận, đoàn thể vững mạnh, rộng khắp, Đảng ta xúc tiến việc tổ chức các Đội Tự vệ công nông, Đội Tự vệ đỏ (Đội Tiểu tổ du kích), Đội Cứu quốc quân, tạo tiền đề cho việc thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (22/12/1944) - Đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi.

Cùng với chuẩn bị về lực lượng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là lãnh tụ Hồ Chí Minh, một loạt văn kiện chỉ đạo chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang được ban hành, như: Chính sách mới của Đảng, Chiến tranh Thái Bình Dương và cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương;… trong đó đã nêu rõ, nhiệm vụ quân sự, chuẩn bị lực lượng vũ trang phải gắn với xây dựng, phát triển các căn cứ địa, Khu giải phóng. Sự ra đời của Khu giải phóng xuất phát từ chủ trương đúng đắn đó và là một tất yếu lịch sử trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tháng 5/1945, thực hiện chỉ thị của Bác Hồ, các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên đã liên kết với nhau thành khu căn cứ quan trọng - “vùng đất căn bản” của cách mạng - lấy Tân Trào (Tuyên Quang) làm trung tâm, Thủ đô của Khu giải phóng. Tại sao Tuyên Quang được chọn và vinh danh: Thủ đô giải phóng? Có mấy căn cứ sau: Thứ nhất là “địa lợi”, Tuyên Quang có địa hình hiểm trở, được bao bọc bởi các dãy núi cao, nhiều thung lũng, hang động có thể bảo đảm an toàn cho cơ quan “đầu não” và tiện lợi cho hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tác chiến - “tiến có thể công, lui có thể thủ”. Thứ hai, Tuyên Quang là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và truyền thống cách mạng; nhân dân các dân tộc có lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, đoàn kết một lòng theo cách mạng, Đảng và Bác Hồ. Thứ ba, Tuyên Quang có điều kiện thuận lợi về đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu có thể bảo đảm cung cấp hậu cần cho cơ quan Trung ương, lực lượng vũ trang khi lâm thời bị địch cắt đứt nguồn tiếp tế từ các nơi đến. Thứ tư, Tuyên Quang có phong trào cách mạng sôi nổi và cơ sở chính trị được xây dựng sớm, khá vững chắc. Từ các yếu tố trên, có thể khẳng định việc chọn Tuyên Quang là trung tâm Khu giải phóng - căn cứ địa cách mạng là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính tại nơi đây đã diễn ra Hội nghị toàn quốc của Đảng (13/8/1945), Quốc dân Đại hội Tân Trào (16/8/1945) ban hành nhiều chỉ thị, quyết định quan trọng, nhất là quyết định Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám.

Điểm nổi bật và rất quan trọng trong Cách mạng Tháng Tám là vấn đề tạo, nắm bắt và tận dụng thời cơ chín muồi để phát động Tổng khởi nghĩa đồng loạt trên cả nước, giành chính quyền về tay nhân dân. Ngay sau cuộc chính biến Nhật đảo chính Pháp (09/3/1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời tổ chức Hội nghị mở rộng, thảo luận kỹ và có quyết định quan trọng được ghi trong Chỉ thị lịch sử, ngày 12/3/1945: “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Trong Chỉ thị đã nêu rõ nhận xét về cuộc chính biến, phân tích những điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi và chín muồi, xác định việc cần làm ngay về công tác tuyên truyền, đấu tranh, tổ chức, huấn luyện,… để khi thời cơ chín muồi (Đồng minh tiến vào Đông Dương đánh Nhật) sẽ phát động Tổng khởi nghĩa. Đúng như dự liệu, khi thời cơ chín muồi đến, Đảng ta đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa và đưa cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám diễn ra hầu như đồng loạt, giành thắng lợi từ Bắc đến Nam, nhất là ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân. Từ thành quả của Cách mạng Tháng Tám, ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt toàn thể quốc dân đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với cả thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới đối với sự phát triển của đất nước. Giành chính quyền chưa được bao lâu, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta lại bước vào hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược kéo dài 30 năm đầy hy sinh, gian khổ, giành thắng lợi vẻ vang, thống nhất nước nhà, mở ra thời kỳ phát triển mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.          

Trong thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, tuy hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định, rất khó lường. Chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, li khai, bạo loạn, can thiệp lật đổ, khủng bố sẽ diễn ra gay gắt hơn. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á là khu vực phát triển năng động, nhưng cũng là nơi cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn, tình hình tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo sẽ gia tăng phức tạp hơn.

Ở trong nước, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh đạt được những kết quả quan trọng, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, yếu kém; bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại. Kinh tế từng bước thoát khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”, tăng cường các hoạt động chống phá ta về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa; chúng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, nhất là trong thời điểm diễn ra Đại hội Đảng các cấp, hòng hạ thấp uy tín của Đảng, tiến tới thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

Tình hình trên đã, đang tạo ra cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra những yêu cầu mới đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần tiếp tục phát huy tinh thần quật khởi và giá trị cội nguồn của Cách mạng Tháng Tám, nỗ lực phấn đấu thực hiện bằng nhiều giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ, quyết liệt.

Trước hết, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong tình hình phức tạp hiện nay, hơn bao giờ hết chúng ta càng phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Đây không chỉ là một bài học thành công của Cách mạng Tháng Tám cần được tiếp tục phát huy, mà còn là vấn đề nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Theo đó, chúng ta cần quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm bảo vệ Tổ quốc của Đảng được thể hiện tập trung trong các văn kiện, nhất là Nghị quyết Đại hội XI, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân vững chắc (ở khu vực biên giới), xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh toàn diện, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm về quốc phòng - an ninh trong nội địa và khu vực biên giới, biển, đảo.

Lực lượng vũ trang nhân dân, đặc biệt là Quân đội nhân dân cần phát huy hơn nữa vai trò nòng cốt, chủ động phối hợp với các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương, địa phương, tích cực tham gia và ứng phó có hiệu quả với các tình huống xảy ra trên địa bàn, không để bị động, bất ngờ, đặc biệt là trên tuyến biên giới, biển đảo của Tổ quốc. Trong quá trình tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh của đất nước, cần coi trọng tiềm lực chính trị - tinh thần, “thế trận lòng dân” vững chắc, nhằm không ngừng củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân. Các đơn vị bộ đội chủ lực, Bộ đội Biên phòng đứng chân trên các địa bàn, căn cứ vào chức năng, tính chất hoạt động để tham gia bằng các hình thức phù hợp, hiệu quả. Đặc biệt, cơ quan quân sự địa phương các cấp phải chủ động làm tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ theo Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) và Nghị định số 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ, đáp ứng yêu cầu bảo vệ địa phương, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong quá trình xây dựng khu vực phòng thủ, cần coi trọng xây dựng các tiềm lực, trong đó triển khai tốt Đề án xây dựng thế trận quân sự đã được phê duyệt đảm bảo phù hợp với khả năng, nguồn lực của địa phương và gắn kết chặt chẽ với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Chúng ta cần thống nhất nhận thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân trước hết và thường xuyên là nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong thời bình, nhưng đồng thời sẵn sàng phục vụ cho thời chiến, đảm bảo đánh thắng chiến tranh xâm lược, xung đột, cục bộ dưới mọi quy mô, hình thức. Do đó, ngay từ trong thời bình, chúng ta phải coi trọng việc xây dựng các phương án động viên nhân tài, vật lực cho nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, xây dựng và triển khai có hiệu quả kế hoạch động viên quốc phòng ở mỗi địa phương, trên từng khu vực và địa bàn cả nước. Để giải quyết tốt vấn đề nhận thức - tư tưởng, trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng theo Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị định số 116/2007/NĐ-CP của Chính phủ, Luật Giáo dục Quốc phòng và an ninh, tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, các đơn vị quân đội  cần chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa môi trường, cứu hộ cứu nạn, nhằm giảm thiểu thiệt hại về người, tài sản của nhân dân.

Một vấn đề đặt ra trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là phát triển những bài học về xây dựng Khu giải phóng và ý nghĩa to lớn của nó vẫn còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục phát huy một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện mới. Theo đó, vấn đề đặt ra đối với Đảng, Nhà nước, trực tiếp là tỉnh Tuyên Quang - Thủ đô giải phóng trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám - cũng như các địa phương hiện nay là phải thường xuyên coi trọng tu bổ, gìn giữ những di tích lịch sử cách mạng bằng cơ chế, chính sách, hình thức phù hợp. Bởi đó là tài sản quý của quốc gia - dân tộc.

Cùng với đó, cần tiếp tục vận dụng bài học về đại đoàn kết dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc cả trong việc bảo tồn các di sản đó và trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, đối với Tuyên Quang là tỉnh có 23 dân tộc anh em thì vấn đề đoàn kết dân tộc lại càng quan trọng. Trong quá trình thực hiện củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Tuyên Quang và các địa phương trên cả nước cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng là lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng, vì lợi ích chung của quốc gia - dân tộc. Đồng thời, đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân văn để tập hợp, đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, tăng cường mối quan hệ máu thịt và lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân, tạo sinh lực mới cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, Quân đội nhân dân cần phối hợp chặt chẽ với Công an nhân nhân, các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và các địa phương làm tốt công tác vận động quần chúng, tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trên các địa bàn, nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo và vùng căn cứ địa cách mạng. Quân đội nhân dân cần phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội, cấp ủy và chính quyền địa phương để nắm chắc tình hình, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; qua đó làm tăng sức mạnh, sự đoàn kết trong nhân dân, đoàn kết nội bộ và đoàn kết giữa các dân tộc.

 Phải coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta không những chuẩn bị chu đáo về mặt chính trị - tinh thần, mà còn đặc biệt chú trọng về mặt quân sự, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang, gồm: Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và các đội tự vệ, du kích ở các địa phương làm chỗ dựa để toàn dân tiến hành khởi nghĩa vũ trang, tiến tới Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Đó là một trong những bài học thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám.

Ngày nay, trước yêu cầu cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cần phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu, trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đối với Quân đội nhân dân, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng theo hướng: “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, ưu tiên đầu tư xây dựng một số quân chủng, binh chủng tiến thẳng lên hiện đại, tạo sức mạnh chiến đấu mới của Quân đội. Trong đó, phải chú trọng xây dựng vững mạnh về chính trị, tạo cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, ý chí, quyết tâm, trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao cho cán bộ, chiến sĩ.

Nhiệm vụ xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ là vấn đề chiến lược. Vì thế, các địa phương nói chung, trong đó có Tuyên Quang cần thường xuyên quan tâm về mọi mặt đối với lực lượng này. Cơ quan quân sự các cấp phải phối hợp chặt chẽ với các lực lượng công an, biên phòng và các lực lượng khác để chủ động tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các địa phương xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ đảm bảo vững mạnh, rộng khắp, có cơ cấu thành phần hợp lý, tổ chức phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng địa bàn. Trong đó, coi trọng nâng cao chất lượng về chính trị, trình độ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, góp phần cùng các lực lượng khác giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, cơ sở.

Trong tình hình hiện nay, Quân đội nhân dân cần phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân theo Nghị định số 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ trong thực hiện các hoạt động an ninh - quốc phòng. Trước hết, là phối hợp trong việc chủ động nắm tình hình, đánh giá và dự báo đúng xu hướng phát triển, nhất là những diễn biến mới, phức tạp liên quan đến quốc phòng - an ninh. Trên cơ sở đó, chủ động phối hợp tham mưu giúp Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia, không để xảy ra bất ngờ về chiến lược.

Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 02/9 là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhận thức sâu sắc hơn về những giá trị to lớn của một sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc. Năm tháng sẽ qua đi, nhưng giá trị đó sẽ mãi trường tồn và soi rọi, cổ vũ cho các thế hệ người Việt Nam, cho mọi cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới./.

         

Đại tướng PHÙNG QUANG THANH

Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

 


1 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H. 1998, tr. 118.

2 - Sđd, tập 7, tr. 129.

 

Ý kiến bạn đọc (0)

Quân đội tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới
Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, trở thành một trong những trụ cột của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp - nền tảng vững chắc để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước