Những chủ trương công tác lớn Chuyên luận chỉ đạo

QPTD -Thứ Năm, 14/03/2019, 08:27 (GMT+7)
Toàn quân tập trung nâng cao sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay

Sức mạnh chiến đấu của Quân đội là tổng hợp của nhiều yếu tố: con người, vũ khí, trang bị, khoa học quân sự, v.v. Nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội để bảo đảm chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống là yêu cầu khách quan, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân, Quân đội đã bám sát đường lối quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng, triển khai đồng bộ các giải pháp xây dựng vững mạnh theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; trong đó, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo bước phát triển mang tính đột phá. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đã tập trung xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, tinh thần cảnh giác cách mạng cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tổ chức Quân đội đã và đang được điều chỉnh theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, bảo đảm cân đối giữa các quân chủng, binh chủng, giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên. Công tác giáo dục - đào tạo, huấn luyện, diễn tập có sự đổi mới toàn diện, tạo bước chuyển biến tích cực, đồng bộ, vững chắc. Các đơn vị đã thực hiện tốt phương châm huấn luyện “cơ bản, thiết thực, vững chắc”; coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát với đối tượng tác chiến, yêu cầu, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế, trang bị và địa bàn hoạt động. Công tác xây dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật được tăng cường. Công tác hậu cần, kỹ thuật được quan tâm xây dựng cả về tiềm lực và thế trận; phương thức bảo đảm có nhiều đổi mới, chất lượng không ngừng được nâng cao, nhất là bảo đảm ăn, mặc của bộ đội. Vũ khí, trang bị kỹ thuật được đầu tư nâng cấp, từng bước hiện đại hóa. Công tác nghiên cứu khoa học quân sự (cả nghệ thuật quân sự và khoa học công nghệ quân sự) đạt kết quả tích cực, v.v. Qua đó, tạo tiền đề quan trọng, thiết thực góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội.

Thượng tướng Nguyễn Phương Nam kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu của Đồn Biên phòng Tuy Đức, tháng 5-2018. Ảnh: bienphong.com.vn

Tuy nhiên, so với yêu cầu nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội vẫn còn những hạn chế, bất cập, như: một số cán bộ, chiến sĩ chưa nhận thức đầy đủ tính chất phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và sự căng thẳng, ác liệt của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong huấn luyện, một số nội dung chưa bám sát thực tiễn chiến tranh trong điều kiện mới; việc bổ sung, điều chỉnh kế hoạch và tổ chức luyện tập các phương án tác chiến ở một số đơn vị chưa được coi trọng đúng mức. Phương thức bảo đảm hậu cần, kỹ thuật có khâu chưa phù hợp; trang thiết bị hậu cần, kỹ thuật có mặt chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ. Công tác nghiên cứu khoa học quân sự chưa tạo được sự đột phá, v.v.

Dự báo thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu hướng chủ đạo, song tiếp tục có những diễn biến khó lường, tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định, nhất là trên khu vực Biển Đông. Đối với nước ta, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), đối tượng tác chiến có vũ khí, trang bị hiện đại, chủ yếu là vũ khí công nghệ cao với nhiều phương thức, thủ đoạn tác chiến mới. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, chống phá cách mạng nước ta trên nhiều mặt, với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; sự tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 tạo ra thời cơ, thách thức với sự cạnh tranh gay gắt trên nhiều lĩnh vực. Tình hình đó đặt ra cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc những yêu cầu mới, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, mà trước hết là Quân đội nhân dân phải tập trung nâng cao sức mạnh chiến đấu, làm nòng cốt bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Để làm tốt nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, toàn quân cần thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau:

Một làtập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng.

Sức mạnh chiến đấu của Quân đội là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố; trong đó, chính trị - tinh thần là yếu tố có ý nghĩa quyết định. V.I. Lê-nin đã từng khẳng định: “trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”1. Vì thế, trong tình hình phức tạp hiện nay, hơn bao giờ hết, toàn quân phải tiếp tục coi trọng thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; có ý chí quyết chiến, quyết thắng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, vì Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, rèn luyện bộ đội; xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội trong mọi tình huống. Trước hết, cần tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thường xuyên chăm lo xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Cùng với đó, cần thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phong trào Thi đua Quyết thắng; các cuộc vận động, nhất là Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, tạo động lực tinh thần mạnh mẽ cho toàn quân trong thực hiện nhiệm vụ.

Thực tiễn cho thấy, sức mạnh chính trị - tinh thần còn được kết tinh trong mỗi quân nhân bởi văn hóa, truyền thống lịch sử của dân tộc. Do đó, các đơn vị cần chú trọng giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn về truyền thống vẻ vang của dân tộc; không ngừng phát huy bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân trong mọi hoạt động. Đồng thời, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho bộ đội về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta; về đối tượng, đối tác; nhận diện và đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội, không để xảy ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Hai là, tích cực điều chỉnh, kiện toàn tổ chức lực lượng; xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật.

Phát huy kết quả đã đạt được, toàn quân tiếp tục thực hiện bước đột phá để tạo chuyển biến về tổ chức, biên chế theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, có sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; có cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần. Trước hết, các cơ quan, đơn vị cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 606-NQ/QUTW, ngày 16-6-2018 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo triển khai Kết luận 16-KL/TW, ngày 07-7-2017 của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021; Quyết định 2574/QĐ-BQP, ngày 30-6-2018 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phê duyệt Kế hoạch triển khai, thực hiện Nghị quyết 606-NQ/QUTW và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Quá trình thực hiện cần nêu cao quyết tâm chính trị, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ cả về tư tưởng, tổ chức và chính sách, thực hiện đồng bộ, thống nhất, lấy nâng cao sức mạnh của Quân đội là mục tiêu cao nhất, tránh mọi biểu hiện, tư tưởng tả khuynh hoặc hữu khuynh.

Kỷ luật là sức mạnh của Quân đội - điều đó luôn đúng cả trong lý luận và thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta. Để xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” thì xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật là nội dung quan trọng, thường xuyên. Đây cũng là một trong các khâu đột phá mà Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X đã đề ra. Vì thế, lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm, thực hiện đồng bộ, toàn diện các nội dung, biện pháp về xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật, pháp luật của bộ đội. Trong đó, tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 37/CT-ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) và Chỉ thị 85/CT-TM của Tổng Tham mưu trưởng về đẩy mạnh xây dựng chính quy trong Quân đội; Chỉ thị 91/CT-BQP, ngày 22-11-2016 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng “Về việc tăng cường quản lý, giáo dục và chấp hành kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam” và Chỉ thị 917/1999/CT-QP về “Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện”, v.v. Yêu cầu đặt ra là, xây dựng nền nếp chính quy trên tất cả các mặt công tác, ở tất cả các cấp, các ngành, bảo đảm tính thống nhất, tính tổ chức, kỷ luật cao, thực hiện “làm việc theo chức trách, hành động theo điều lệnh”, phấn đấu giảm tỷ lệ quân nhân vi phạm kỷ luật; hạn chế thấp nhất các vụ việc mất an toàn kỹ thuật và mất an toàn giao thông.

Ba làđẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng chiến đấu.

Đây là nhân tố quan trọng, tác động trực tiếp đến sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Vì thế, toàn quân phải tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác huấn luyện, nhất là Nghị quyết 765-NQ/QUTW về “Nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”. Về nhận thức, các cơ quan, đơn vị, trước hết là cấp ủy, chỉ huy các cấp phải thấu suốt: huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu là nhiệm vụ chính trị trung tâm, thường xuyên của Quân đội trong thời bình, là cơ sở, biện pháp quan trọng để nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Trên cơ sở đó, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành huấn luyện; tích cực đổi mới công tác huấn luyện, diễn tập theo tư duy mới về quốc phòng, quân sự của Đảng và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Từ kết quả, kinh nghiệm đạt được sau 05 năm thực hiện Nghị quyết 765, nhất là những hạn chế, khuyết điểm đã được Quân ủy Trung ương chỉ ra, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh đổi mới nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp huấn luyện, diễn tập; tích cực huy động các nguồn lực, làm tốt công tác bảo đảm cho huấn luyện, v.v. Bám sát phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, các cơ quan, đơn vị cần tích cực nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện, chuẩn hóa nội dung, chương trình huấn luyện cho các đối tượng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tổ chức biên chế, trang bị vũ khí. Trong đó, tăng cường huấn luyện thực hành, huấn luyện theo nhiệm vụ, theo tình huống; huấn luyện nâng cao khả năng cơ động tác chiến trong điều kiện địa hình, thời tiết phức tạp, địch sử dụng vũ khí công nghệ cao; kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện với luyện tập, diễn tập, huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị, rèn luyện kỷ luật, xây dựng niềm tin vào cách đánh, vũ khí, trang bị hiện có. Đồng thời, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, thực hành huấn luyện, diễn tập. Cùng với nâng cao chất lượng huấn luyện, toàn quân cần tăng cường tổ chức, đổi mới, nâng cao chất lượng diễn tập ở các cấp; kết hợp diễn tập chiến dịch, chiến lược với diễn tập chiến thuật, diễn tập vòng tổng hợp, diễn tập đối kháng, diễn tập thực binh có bắn đạn thật, diễn tập tác chiến hiệp đồng quân binh chủng gắn với tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương trong khu vực phòng thủ nhằm rèn luyện, nâng cao năng lực tham mưu, chỉ huy tác chiến của cán bộ các cấp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của bộ đội.

Bốn là, từng bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị; thực hiện tốt công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật.

Cùng với con người, vũ khí, trang bị có vai trò rất quan trọng, quyết định sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, những năm gần đây, ngày càng có nhiều loại vũ khí, khí tài, trang bị kỹ thuật tiên tiến thế hệ mới, vũ khí, trang bị cải tiến, hiện đại hóa được đưa vào khai thác sử dụng, giúp nâng cao một bước khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta. Phát huy kết quả đó, các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, trước hết là Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, cần bám sát chủ trương của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, nhất là Nghị quyết 06-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI), Thông báo Kết luận 25/TB-TW, ngày 11-4-2017 của Bộ Chính trị (khóa XII) về Đề án “Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết 29/NQ-TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược trang bị Quân đội nhân dân Việt Nam”,… tham mưu xây dựng, triển khai thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng; quy hoạch sử dụng vũ khí, trang bị; chương trình, đề án mua sắm, sản xuất, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật, phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội, khả năng của đất nước. Toàn quân tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết 623-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Công tác hậu cần Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết 382-NQ/ĐUQSTW, ngày 29-11-2007 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về “Lãnh đạo công tác kỹ thuật trong tình hình mới”; chủ động chuẩn bị chu đáo, toàn diện, đầy đủ, kịp thời hậu cần, kỹ thuật cho nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và nhiệm vụ đột xuất. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện đồng bộ vũ khí, trang bị kỹ thuật; duy trì nghiêm quy định dự trữ vật chất, phương tiện, vũ khí, trang bị sẵn sàng chiến đấu, chế độ bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa; tập trung đột phá nâng cao chất lượng công tác hậu cần, kỹ thuật, chú trọng làm chủ, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới, đảm bảo hệ số kỹ thuật của vũ khí, trang bị kỹ thuật theo quy định.

Năm là, đẩy mạnh nghiên cứu phát triển khoa học quân sự, nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết lịch sử nghệ thuật quân sự của dân tộc, nhất là những bài học về nghệ thuật tạo sức mạnh tổng hợp toàn dân đánh giặc; về lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít đánh nhiều; đánh địch bằng mưu, kế, thế, thời. Đồng thời, tập trung phát triển lý luận về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, trọng tâm là xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững chắc, v.v. Đặc biệt, cần tập trung nghiên cứu phát triển lý luận nghệ thuật quân sự; nghiên cứu cách đánh, phù hợp với sự phát triển của đối tượng tác chiến, tổ chức biên chế, trang bị vũ khí của Quân đội ta trong điều kiện chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc phát triển ở trình độ cao. Trên cơ sở quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia, tập trung nghiên cứu, dự báo các tình huống chiến tranh xâm lược, xây dựng phương án tác chiến; dự kiến các tình huống, tập trung nghiên cứu điều chỉnh bố trí lực lượng chủ lực cơ động trên các địa bàn chiến lược, tạo lập thế trận trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, v.v. Về nghệ thuật chiến dịch, chú trọng nghiên cứu, phát triển lý luận chiến dịch trong các loại hình tác chiến chiến lược; về tác chiến hiệp đồng quân - binh chủng, phối hợp tác chiến giữa các binh đoàn chủ lực cơ động với lực lượng vũ trang địa phương, v.v. Đối với chiến thuật, cần tập trung nghiên cứu nghệ thuật vận dụng các biện pháp, thủ đoạn chiến đấu, như: đột phá, thọc sâu, vu hồi, chia cắt, nghi binh, phương pháp phòng tránh, đánh trả khi địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, v.v.

Trước yêu cầu mới về hiện đại hóa vũ khí, trang bị và thách thức của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, để nâng cao chất lượng hoạt động khoa học công nghệ quân sự, thời gian tới, các cơ quan, đơn vị, học viện, nhà trường trong toàn quân cần tập trung quán triệt Nghị quyết 791-NQ/QUTW, ngày 30-12-2012 của Quân ủy Trung ương về “Lãnh đạo công tác khoa học, công nghệ và môi trường trong Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trong đó, chú trọng nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm quân sự hiện đại, có tính đột phá; tập trung nguồn lực đầu tư cho các dự án trọng điểm để xây dựng mới và hiện đại hóa công nghệ chế tạo, sửa chữa, cải tiến vũ khí, trang bị kỹ thuật. Thực hiện tốt việc gắn kết công nghiệp quốc phòng với công nghiệp quốc gia trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, nhất là trong lĩnh vực công nghệ lưỡng dụng, như: công nghệ cơ khí chính xác và hóa nổ, công nghệ điện tử, vệ tinh - viễn thông, tin học, v.v. Đồng thời, tạo đột phá trong việc vận dụng cơ chế đặt hàng cho nhiệm vụ nghiên cứu; từng bước thí điểm để hình thành các doanh nghiệp khoa học, công nghệ và thực hiện xã hội hóa một số cơ sở nghiên cứu theo cơ chế giao nhiệm vụ, đấu thầu, tuyển chọn,... bảo đảm cho hoạt động khoa học công nghệ quân sự ngày càng đạt hiệu quả cao, thiết thực, góp phần hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật. Mặt khác, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, cần tranh thủ sự hợp tác quốc tế; chủ động tiếp thu có lựa chọn những tinh hoa khoa học quân sự thế giới, áp dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu nâng cao sức mạnh của Quân đội trong tình hình mới.

Thượng tướng NGUYỄN PHƯƠNG NAM, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
____
___________

1 - V.I. Lê-nin - Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, M. 1977, tr. 147.

Ý kiến bạn đọc (0)

Quân đội tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới
Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, trở thành một trong những trụ cột của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp - nền tảng vững chắc để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước