Thứ Năm, 24/04/2025, 11:48 (GMT+7)
Những chủ trương công tác lớn Chuyên luận chỉ đạo
Ngày 28/11/2024, Quốc hội khóa XV thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2024. Đây là sự kiện quan trọng, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với Quân đội; đồng thời, khẳng định uy tín, vai trò, vị thế của đội ngũ sĩ quan; đánh dấu bước phát triển mới trong xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để Luật nhanh chóng phát huy hiệu lực, đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, hiệu quả.
Sĩ quan Quân đội nhân dân là cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam; lực lượng nòng cốt, thành phần chủ yếu trong đội ngũ cán bộ Quân đội, đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý hoặc trực tiếp thực hiện một số nhiệm vụ khác, bảo đảm cho Quân đội sẵn sàng chiến đấu và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Vì vậy, để xây dựng đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc, Quốc hội khóa X đã ban hành Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (năm 1999), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2000; được sửa đổi, bổ sung 02 lần vào năm 2008 và năm 2014 (sau đây gọi là Luật Sĩ quan).
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của Luật Sĩ quan, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ Luật Sĩ quan và các văn bản dưới Luật; có nhiều hình thức, biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân và chủ động phối hợp tuyên truyền, phổ biến đến các cấp, ngành, địa phương và nhân dân để nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành Luật. Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị đã nghiên cứu áp dụng, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật về sĩ quan với các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ.
Quá trình thực hiện cho thấy, Luật Sĩ quan cơ bản đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xây dựng đội ngũ sĩ quan Quân đội. Trong đó, quy định rõ hệ thống chức danh, chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý từ Bộ Quốc phòng đến cấp cơ sở. Quy định hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ theo cấp bậc quân hàm, hạn tuổi phục vụ của sĩ quan giữ chức vụ chỉ huy, quản lý đối với từng loại hình đơn vị và kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của sĩ quan cơ bản phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của Quân đội - ngành lao động đặc biệt của xã hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, phong, thăng, giáng, tước quân hàm được các cơ quan, đơn vị thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định của Đảng, Nhà nước và Luật Sĩ quan. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt được nhiều kết quả quan trọng1; công tác tạo nguồn, chuyển loại sĩ quan dự bị để sắp xếp vào các đơn vị dự bị động viên cơ bản đủ số lượng, chất lượng tốt2; chế độ tiền lương, phụ cấp, chính sách về nhà ở, chế độ an điều dưỡng, công tác quản lý, theo dõi, chăm sóc sức khỏe,... ngày càng được quan tâm, góp phần xây dựng đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Tuy nhiên, từ khi thực hiện Luật Sĩ quan đến nay, đã có nhiều chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được ban hành có liên quan, ảnh hưởng, tác động đến đội ngũ sĩ quan Quân đội3, dẫn tới một số nội dung của Luật chưa phù hợp với chủ trương và hệ thống pháp luật hiện hành. Đồng thời, qua thực tiễn thực hiện đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập, như: Vấn đề quy định chức vụ cơ bản của sĩ quan chưa đầy đủ; hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của sĩ quan chưa tận dụng tối đa nguồn nhân lực; việc xem xét nâng lương trước thời hạn; thanh toán tiền những ngày không nghỉ phép hằng năm; chế độ, chính sách cho một bộ phận sĩ quan khi nghỉ hưu theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội. Cùng với đó, một số đơn vị đã có sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế, bổ sung chức năng, nhiệm vụ và được điều chỉnh chức danh, chức vụ nhưng chưa được quy định cụ thể trong Luật; một số nội dung của Luật chưa giao cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết; một số chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội, nhà ở, đất ở, chăm sóc sức khỏe, trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương,... quy định chưa cụ thể nên hiệu quả thực hiện Luật chưa cao.
Từ cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Sĩ quan. Trước đòi hỏi cấp thiết đó, Bộ Quốc phòng đã đề nghị Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan theo trình tự, thủ tục rút gọn và theo quy trình tại một kỳ họp. Trên cơ sở đó, với quyết tâm chính trị rất cao, tinh thần vào cuộc khẩn trương, quyết liệt, Bộ Quốc phòng đã chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành, cơ quan liên quan xây dựng, hoàn thiện Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 8 với số phiếu tán thành rất cao. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (năm 2024) được xây dựng trên cơ sở kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật Sĩ quan; đồng thời, bổ sung, điều chỉnh một số nội dung quan trọng, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước, Nhân dân nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong tình hình mới, đó là:
(1). Về chức vụ cơ bản và chức vụ, chức danh tương đương của sĩ quan: Điều chỉnh tăng từ 11 lên 17 chức vụ cơ bản; bổ sung chức vụ cơ bản là cấp phó: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và các chức vụ là cấp phó của cấp trưởng đến Phó Đại đội trưởng, Chính trị viên phó Đại đội. Đây là cơ sở quan trọng để quy định các chức vụ, chức danh tương đương, phân định rõ cấp trên, cấp dưới và thực hiện chính sách cho sĩ quan. Bởi vì, Luật Sĩ quan chỉ quy định 11 chức vụ cơ bản, trong khi cơ cấu tổ chức, biên chế trong Quân đội có nhiều thành phần, lực lượng (gồm 6.277 chức vụ, 12.310 chức danh) dẫn đến khi xây dựng các văn bản triển khai thực hiện không cụ thể hóa các chức vụ, chức danh cho phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, do Luật không quy định cấp phó nên việc quy định phụ cấp chức vụ gặp nhiều khó khăn.
(2). Về tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan: Luật sửa đổi về hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ theo cấp bậc quân hàm, cụ thể: Cấp úy từ 46 lên 50 tuổi, Thiếu tá từ 48 lên 52 tuổi, Trung tá từ 51 lên 54 tuổi, Thượng tá từ 54 lên 56 tuổi, Đại tá nam từ 57 lên 58 tuổi, nữ từ 55 lên 58 tuổi; cấp tướng nam 60 giữ nguyên, nữ từ 55 lên 60 tuổi. Luật quy định tuổi của nam sĩ quan, nữ sĩ quan bằng nhau và không xác định lộ trình tăng tuổi. Quy định độ tuổi công tác, phục vụ Quân đội như vậy thể hiện rõ tính ưu việt, vừa góp phần giữ gìn đội ngũ sĩ quan được đào tạo cơ bản, có bản lĩnh, trình độ, kinh nghiệm, sức khỏe và có thời gian phục vụ Quân đội dài hơn, vừa phù hợp với tính chất lao động đặc thù của Quân đội; bảo đảm sĩ quan khi nghỉ hưu được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội tối ưu nhất.
(3). Về cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan: Luật quy định số lượng cấp tướng ở từng cấp nhưng không quy định vị trí cụ thể từ cấp Trung tướng trở xuống; giao Chính phủ quy định cụ thể vị trí có cấp bậc quân hàm cao nhất là Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân, Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân và cấp bậc quân hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh của sĩ quan là cấp tướng của đơn vị thành lập mới, đơn vị được tổ chức lại, bổ sung chức năng, nhiệm vụ nhưng không vượt quá số lượng tối đa vị trí cấp tướng theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Điều này phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành; bảo đảm bí mật nhà nước và chủ trương đổi mới trong xây dựng luật, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền. Đồng thời, bảo đảm tính linh hoạt, đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với một số đơn vị không thay đổi về tên gọi nhưng có sự điều chỉnh, phát triển về quy mô tổ chức, biên chế; bổ sung chức năng, nhiệm vụ phù hợp với chủ trương của Đảng về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng.
(4). Đối với một số nội dung liên quan đến chế độ, chính sách của sĩ quan. Về thăng quân hàm sĩ quan vượt bậc và trước thời hạn, Luật quy định: giao Chính phủ quy định tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm sĩ quan cấp tướng vượt bậc và trước thời hạn. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định tiêu chí, tiêu chuẩn để xét thăng quân hàm sĩ quan cấp tá, cấp úy vượt bậc và trước thời hạn. Đồng thời, quy định sĩ quan được xét nâng lương trước thời hạn và giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết. Việc sửa đổi, bổ sung như trên tạo cơ sở thuận lợi để thực hiện, góp phần kịp thời động viên sĩ quan khi lập thành tích xuất sắc và đặc biệt xuất sắc. Bên cạnh đó, Luật quy định: sĩ quan do yêu cầu nhiệm vụ mà không được nghỉ hằng năm thì ngoài tiền lương còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những ngày không nghỉ. Sĩ quan hết tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất theo quy định tại Luật, nếu đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm trở lên thì được nghỉ hưu. Sĩ quan nghỉ hưu được hưởng chế độ an điều dưỡng, chăm sóc khi mắc bệnh hiểm nghèo, chế độ thông tin, hỗ trợ tang lễ khi từ trần theo quy định của Chính phủ.
(5). Luật quy định trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương trong thực hiện Luật, nhất là thực hiện chế độ, chính sách về nhà ở đối với sĩ quan. Đặc biệt là: giao Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách đặc biệt về điều kiện, môi trường làm việc, lương, thưởng để thu hút, trọng dụng nhân tài đối với Quân đội và giao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc bố trí quỹ đất, thu hồi đất theo quy định của pháp luật để bàn giao cho Bộ Quốc phòng làm cơ quan chủ quản, triển khai thực hiện chính sách phát triển nhà ở xã hội cho Quân đội; theo đó, sĩ quan sẽ có nhiều cơ hội được hưởng chính sách nhà ở xã hội.
(6). Đối với sĩ quan dự bị: Luật sửa đổi hạn tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị tăng từ 01 đến 02 tuổi để phù hợp với việc nâng tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan; đồng thời, tận dụng được đội ngũ sĩ quan khi nghỉ hưu tiếp tục phục vụ trong ngạch dự bị và số sĩ quan dự bị có kinh nghiệm trong thực tiễn chỉ huy, quản lý, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và xây dựng đơn vị; sẵn sàng động viên, tổng động viên vào phục vụ Quân đội khi đất nước có tình huống xảy ra, đáp ứng nhu cầu sắp xếp, bổ nhiệm vào các đơn vị được khôi phục, mở rộng lực lượng theo Quyết tâm Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và bảo đảm thống nhất với Luật Lực lượng dự bị động viên năm 2019. Bên cạnh đó, Luật quy định hạn tuổi phục vụ cao nhất của Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động. Học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị, học viên tốt nghiệp đào tạo Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự cấp xã ngành quân sự cơ sở thì căn cứ trình độ đã được đào tạo, kết quả học tập, rèn luyện được phong quân hàm sĩ quan dự bị và giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết. Ngoài ra, Luật còn bổ sung, thay thế một số nội dung, từ ngữ, bảo đảm phù hợp với thực tế.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc có sự bổ sung, phát triển, với nhiều khó khăn, phức tạp đặt ra. Quá trình triển khai thực hiện các nghị quyết, chiến lược của Đảng về bảo vệ Tổ quốc và điều chỉnh tổ chức biên chế Quân đội, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh,... đã, đang đòi hỏi yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng đội ngũ sĩ quan. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (năm 2024) là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng đội ngũ sĩ quan đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Tuy nhiên, để Luật nhanh chóng phát huy hiệu lực, hiệu quả, đòi hỏi toàn quân phải nỗ lực giải quyết đồng bộ khối lượng công việc lớn; trong đó, tập trung thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp trọng tâm sau:
1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, sự đồng thuận của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, nhân viên, chiến sĩ trong toàn quân, cũng như của các cấp, ngành, các tầng lớp nhân dân về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (năm 2024). Các cơ quan, đơn vị, nhà trường Quân đội tổ chức quán triệt, học tập chặt chẽ; lồng ghép vào chương trình giáo dục chính trị, học tập nghị quyết, phổ biến, giáo dục pháp luật, giáo dục quốc phòng và an ninh, giáo dục truyền thống, sinh hoạt đơn vị, các hoạt động văn hóa, văn nghệ; nghiên cứu biên soạn, đưa vào giảng dạy các nội dung mới của Luật phù hợp với mục tiêu và chương trình đào tạo sĩ quan. Phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông trong và ngoài Quân đội, các nền tảng số, mạng xã hội xây dựng chuyên trang, chuyên mục, các ấn phẩm nhằm tuyên truyền sâu rộng về Luật. Đồng thời, chủ động phối hợp với các ban, bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến Luật trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân. Nội dung tuyên truyền, giáo dục phải bảo đảm toàn diện, hệ thống; trong đó, chú trọng làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn; tính cấp thiết phải ban hành Luật; những nội dung mới; ý nghĩa, giá trị của từng nội dung sửa đổi, bổ sung đối với việc khắc phục những vướng mắc, bất cập của Luật Sĩ quan được sửa đổi, bổ sung năm 2008, năm 2014 và đối với công tác xây dựng đội ngũ sĩ quan. Trong quá trình tuyên truyền, kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Qua đó, để các cấp, ngành, cả hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ: nhiệm vụ xây dựng Quân đội nói chung, xây dựng đội ngũ sĩ quan nói riêng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; đồng thời, thấy được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Quân đội đối với đội ngũ sĩ quan; quyền lợi và trách nhiệm của sĩ quan, tạo động lực để đội ngũ sĩ quan phấn khởi công tác, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc; động viên, thu hút công dân, nhân lực chất lượng cao vào học tập, rèn luyện trở thành sĩ quan Quân đội, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới.
2. Cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, hướng dẫn triển khai thực hiện Luật nghiêm túc, chặt chẽ, hiệu quả. Các cơ quan của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng theo chức năng, nhiệm vụ, thực hiện tốt công tác tham mưu xây dựng, ban hành các văn bản làm cơ sở để các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện. Các cấp ủy, tổ chức đảng đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện Luật sát hợp với chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tình hình của cơ quan, đơn vị mình; chú trọng khắc phục những hạn chế đã được chỉ ra trong tổng kết thực hiện Luật Sĩ quan ở các cấp. Cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp nêu cao trách nhiệm, tăng cường kiểm tra, giám sát trong tổ chức thực hiện, kịp thời nắm bắt, giải quyết những tác động, bất cập, những vấn đề phát sinh khi thực hiện Luật; chấp hành nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy chế, quy định của Đảng về công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ4. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng đội ngũ sĩ quan, nhất là về phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, gắn với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng.
3. Kết hợp chặt chẽ việc triển khai thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam với công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Quán triệt, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 2960-CT/QUTW, ngày 18/7/2024 của Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; các quy định về tiêu chuẩn cấp ủy viên; Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; tinh thần của cuộc “cách mạng” về cải cách bộ máy theo chủ trương “Tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”. Trên cơ sở đó, làm tốt công tác quy hoạch, giới thiệu nhân sự tái cử, tham gia cấp ủy các cấp, nhất là tham gia cấp ủy địa phương đúng nguyên tắc, quy chế, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm đồng bộ, chặt chẽ, dân chủ, khoa học, khách quan, công tâm, minh bạch, trách nhiệm giải trình; đoàn kết, thống nhất cao; có sự kế thừa, đổi mới và phát triển. Chú trọng rà soát kỹ, coi trọng chất lượng, đáp ứng tốt các tiêu chí; bảo đảm nhân sự khóa mới thực sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, trí tuệ, phẩm chất, đạo đức, lối sống, năng lực, uy tín; cấp ủy là trung tâm đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, sức chiến đấu cao, có tầm nhìn và tư duy đổi mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
4. Kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, tổ chức và chính sách trong thực hiện Luật. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần chủ động làm tốt công tác tư tưởng với từng đối tượng, từng cơ quan, đơn vị; chú trọng nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của số cán bộ chịu tác động do thực hiện quy định nâng tuổi phục vụ tại ngũ; kịp thời động viên, giải quyết tốt tư tưởng ngay từ cơ sở. Đồng thời, thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, đánh giá, nhận xét, sử dụng; gắn quy hoạch với đào tạo, sử dụng, gắn xây dựng đội ngũ sĩ quan với xây dựng đội ngũ đảng viên, xây dựng cán bộ chủ trì với xây dựng cấp ủy. Thực hiện đồng bộ các biện pháp giải quyết số lượng; bổ nhiệm, luân chuyển, chuyển ra, kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ, phong, thăng quân hàm, nâng lương, bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định. Nghiên cứu, tham mưu đề xuất ban hành, thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với sĩ quan, hậu phương Quân đội, nhất là những chính sách mới được sửa đổi, đưa vào Luật, trọng tâm là chính sách tiền lương, nhà ở và các chính sách khác để thu hút, trọng dụng nhân tài đối với Quân đội. Quan tâm chăm lo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ sĩ quan đang phục vụ tại ngũ, nhất là sĩ quan đóng quân ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và sĩ quan có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn. Quán triệt, thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với các đồng chí không tái cử cấp ủy nhiệm kỳ 2025 - 2030, nghỉ công tác, bố trí công tác khác, nghỉ hưu theo quy định.
5. Thực hiện tốt nội dung quản lý nhà nước về sĩ quan; kịp thời đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành, hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ sĩ quan; chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, bố trí, sử dụng sĩ quan; chính sách, chế độ đối với đội ngũ sĩ quan. Làm tốt công tác tuyên truyền hướng nghiệp, tạo nguồn đào tạo sĩ quan. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết bảo đảm việc thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan ngày càng hiệu quả, thiết thực.
Quán triệt, triển khai, bảo đảm Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam sớm đi vào thực tiễn cuộc sống là trách nhiệm chính trị của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị, trước hết là các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, góp phần xây dựng đội ngũ sĩ quan vững mạnh, thực sự là lực lượng nòng cốt trong xây dựng Quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Thượng tướng TRỊNH VĂN QUYẾT, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam _________________
1 - Từ năm 2014 đến hết năm 2023, Bộ Quốc phòng đã tổ chức đào tạo hàng trăm nghìn lượt cán bộ các cấp ở các trường trong và ngoài Quân đội, trường nước ngoài.
2 - So với năm 2014, số lượng sĩ quan dự bị hiện có đạt 144,14% so với nhu cầu; trong đó, sắp xếp, bổ nhiệm vào các đơn vị dự bị động viên đạt 92,28% (tăng 13,7%), tỷ lệ đúng chuyên nghiệp quân sự là 72,8% (tăng 5,9%).
3 - Như: Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; Kết luận số 35-KL/TW, ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở; Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 24/5/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát triển nhà ở xã hội trong tình hình mới; Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015; Bộ luật Lao động năm 2019; Luật Nhà ở năm 2023, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024, v.v.
4 - Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 109-NQ/QUTW, ngày 11/02/2019 của Quân ủy Trung ương về xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, nhất là cấp chiến dịch, chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, v.v.
Luật sửa đổi,bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; đội ngũ sĩ quan; hạn tuổi phục vụ
Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 11 16/04/2025
Toàn văn Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc 15/04/2025
Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII 12/04/2025
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 11 10/04/2025
Bài viết "Vươn mình trong hội nhập quốc tế" của Tổng Bí thư Tô Lâm 03/04/2025
Tương lai cho thế hệ vươn mình 25/03/2025
Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng 18/03/2025
Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác tài chính Quân đội năm 2025 10/03/2025
Một số định hướng lớn về công tác đối ngoại quốc phòng năm 2025 06/03/2025
Học tập suốt đời 02/03/2025
Tương lai cho thế hệ vươn mình
Bài viết "Vươn mình trong hội nhập quốc tế" của Tổng Bí thư Tô Lâm
Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 11
Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII
Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm khai mạc Hội nghị Trung ương 11
Toàn văn Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc