Những chủ trương công tác lớn Chuyên luận chỉ đạo

QPTD -Thứ Hai, 08/10/2018, 13:36 (GMT+7)
Đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp trong Quân đội

Quán triệt quan điểm, chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, Nhà nước, Quân đội đã và đang thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này, nhằm đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm cùng các hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật, kỷ cương, góp phần tăng cường sức mạnh chiến đấu của Quân đội trong tình hình mới.

Trên cơ sở quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, nhất là Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, những năm qua, công tác cải cách tư pháp trong Quân đội luôn được coi trọng, thực hiện bằng nhiều giải pháp đồng bộ, tạo chuyển biến tích cực và đạt được kết quả quan trọng. Tiêu biểu là, nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là trong khối các cơ quan tư pháp về vị trí, vai trò và sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp trong Quân đội được nâng lên rõ rệt. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được tiến hành rộng rãi, đi vào chiều sâu, hiệu quả; cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân ngày càng chấp hành nghiêm kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện. Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Vụ Pháp chế (Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo) đã phối hợp với các cơ quan tư pháp (Tòa án Quân sự, Viện Kiểm sát quân sự, Cục Điều tra hình sự, An ninh điều tra, Thi hành án) phát huy tinh thần đổi mới, tích cực nghiên cứu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm từng bước tinh gọn bộ máy, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp. Công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ theo từng lĩnh vực, chức danh được thực hiện khá chặt chẽ, đúng quy trình, bảo đảm từng bước chuẩn hóa về số lượng, chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Phương thức lãnh đạo của Đảng và công tác giám sát của các tổ chức quần chúng đối với hoạt động tư pháp tiếp tục được đổi mới, v.v. Những kết quả trên, đã góp phần quan trọng giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật của cán bộ, chiến sĩ, bảo đảm cho Quân đội thực sự vững mạnh về mọi mặt, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác phối hợp tuyển chọn, đào tạo cán bộ tư pháp của Quân đội với các trường đại học chuyên ngành và các cơ quan liên quan nhằm bảo đảm yêu cầu cả về trình độ chuyên môn pháp lý và kiến thức quân sự, quốc phòng còn gặp nhiều khó khăn; chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là năng lực xây dựng, soạn thảo văn bản pháp lý chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu cải cách tư pháp. Cơ chế phối hợp giữa cơ quan tư pháp Quân đội với các cơ quan tư pháp địa phương liên quan trong một số giai đoạn tố tụng có vụ án, vụ việc chưa chặt chẽ, hiệu quả; tính thống nhất trong hoạt động điều tra, áp dụng pháp luật tố tụng hình sự chưa cao. Việc tổ chức lại bộ máy các cơ quan tư pháp trong Quân đội mặc dù đã triển khai nhưng chưa đồng bộ, quyết liệt; hoạt động tố tụng hình sự vừa thực hiện thẩm quyền theo lãnh thổ, vừa thực hiện thẩm quyền theo quản lý hành chính quân sự. Công tác bảo đảm vật chất, trang bị, phương tiện và các thiết chế pháp luật còn có mặt hạn chế, chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cải cách tư pháp của Quân đội trong tình hình mới, v.v.

Thượng tướng Lê Chiêm phát biểu tại hội nghị Sơ kết công tác tư pháp, thanh tra, pháp chế, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển 6 tháng đầu năm 2018.
(Ảnh: qdnd.vn)

Thời gian tới, sự chống phá của các thế lực thù địch và tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, vi phạm pháp luật liên quan đến Quân đội, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 trong quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế sẽ làm xuất hiện các loại tội phạm mới, như: tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, rửa tiền, ma túy, kinh tế, công nghệ cao, an ninh mạng, khủng bố,… đe dọa trực tiếp công tác bảo đảm bí mật quân sự, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và việc chấp hành pháp luật, kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ. Do vậy, trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc, công tác cải cách tư pháp trong Quân đội cần được tiếp tục đẩy mạnh bằng nhiều giải pháp đồng bộ, khoa học.

Trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, đảng ủy quân khu và tương đương đối với nhiệm vụ cải cách tư pháp trong Quân đội. Hiện nay, cơ quan tư pháp trong Quân đội đang tổ chức theo cả biên chế ngành dọc (cấp Bộ, quân khu và tương đương) và theo khu vực hành chính quân sự (cấp khu vực), nên công tác lãnh đạo, chỉ đạo chủ yếu tập trung ở Quân ủy Trung ương, đảng ủy quân khu và tương đương. Vì vậy, để công tác cải cách tư pháp đạt hiệu quả thiết thực hơn nữa, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển Quân đội trong thời kỳ mới, trong lãnh đạo công tác này, các cấp ủy đảng cần tiếp tục cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp về chính trị, tổ chức và cán bộ; khắc phục tình trạng cấp ủy đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp”1 và cụ thể hóa cơ chế quản lý hành chính, bảo đảm chặt chẽ, đúng pháp luật đối với các cơ quan tư pháp trong Quân đội. Đồng thời, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả phương hướng, nhiệm vụ trong Nghị quyết 67/NQ-ĐUQSTƯ, Kết luận 92-KL/TW, ngày 12-3-2014 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW phù hợp đặc điểm, tính chất nhiệm vụ được giao. Nội dung lãnh đạo phải toàn diện, trong đó tập trung thực hiện tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ tư pháp các cấp trong Quân đội về nhiệm vụ cải cách tư pháp và công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong toàn quân cũng như nhân dân địa bàn nơi đóng quân. Đẩy mạnh lãnh đạo việc sắp xếp lại cơ cấu, tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp trong Quân đội theo hướng: tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; bảo đảm đúng định hướng, quan điểm của Đảng; phát huy chuyên môn, nghiệp vụ của các ngành tư pháp và bổ trợ tư pháp theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Chú trọng kiện toàn, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chương trình, kế hoạch cải cách của cấp ủy, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp các cấp. Tăng cường tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực toàn diện, nhất là năng lực, tư duy nghiên cứu soạn thảo, sửa đổi, bổ sung các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề mới phát sinh, quan điểm chưa thống nhất trong hoạt động tư pháp, làm cơ sở tham mưu với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Ban Bí thư, Bộ Chính trị những mục tiêu, quan điểm, phương hướng, trọng tâm lãnh đạo nhiệm vụ cải cách tư pháp tiếp theo.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Đây là nội dung quan trọng, khâu then chốt, quyết định đến hiệu quả công tác cải cách tư pháp của Quân đội. Hiện nay, đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp trong Quân đội thiếu về số lượng, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo yêu cầu: không chỉ giỏi về chuyên ngành tư pháp trong Quân đội, mà còn có khả năng xử lý kịp thời, hiệu quả các vấn đề pháp lý thực tiễn đặt ra liên quan đến yếu tố nước ngoài trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, v.v. Vì vậy, các cơ quan tư pháp cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ theo hướng: vững về chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ pháp lý, chắc về kiến thức quân sự, quốc phòng và có khả năng làm việc trong môi trường pháp lý quốc tế. Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết về đội ngũ cán bộ này, Vụ Pháp chế đề xuất với Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Bộ Quốc phòng, tham mưu với Quân ủy Trung ương và phối hợp chặt chẽ với Cục Cán bộ - Tổng cục Chính trị, các bộ, ngành, trường đại học liên quan để đào tạo văn bằng hai pháp lý trình độ đại học cho đội ngũ cán bộ hiện có của các ngành. Đồng thời, tăng cường tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực toàn diện cho đội ngũ cán bộ tư pháp; chú trọng cập nhật những kiến thức pháp lý mới, như: Luật An ninh mạng, văn bản chuyên ngành tư pháp sửa đổi, bổ sung về quốc phòng, an ninh, kinh tế,…và những điều ước quốc tế, khu vực. Đây là điều kiện, cơ sở quan trọng để tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Chính trị tham gia tố tụng tầm quốc gia (có yếu tố nước ngoài), nhằm bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ Tổ quốc, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam về lĩnh vực quốc phòng, an ninh trong môi trường quốc tế.

Cùng với đó, cần nâng cao năng lực của cán bộ các chuyên ngành: điều tra, truy tố, xét xử, tranh tụng, thi hành án trong hoạt động tư pháp Quân đội. Về lâu dài, cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng đề án đào tạo cán bộ pháp luật trong Quân đội theo hướng: kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo trong nước với gửi đi đào tạo ở nước ngoài, nhằm bảo đảm số lượng, nâng cao chất lượng; phấn đấu từng bước thực hiện tiêu chí “cán bộ tư pháp toàn cầu”, đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế về tư pháp quốc phòng, phù hợp với định hướng xây dựng, hoàn thiện Đề án “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong Quân đội”. Quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp cần đẩy mạnh tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công nhân, viên chức quốc phòng theo Nghị quyết 39-NQ/TW, ngày 17-4-2015 của Bộ Chính trị, đặc biệt là Nghị quyết 606-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương và Kết luận 16-KL/TW, ngày 07-7-2017 của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021. Kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện cơ chế thi tuyển các chức danh của từng ngành tư pháp với đổi mới công tác chính sách theo điều kiện lao động đặc thù của cán bộ tư pháp trong Quân đội, nhằm tuyển chọn, thu hút những người có tâm huyết, đức, tài bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Chú trọng thực hiện Đề án phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp Quân đội thực sự trong sạch, vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp trong Quân đội. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, các cơ quan tư pháp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đẩy mạnh thực hiện Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật, làm cho bộ đội nhận thức rõ phương thức, thủ đoạn mới của các loại tội phạm, nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi phạm tội. Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân phải thường xuyên thông báo, rút kinh nghiệm, định hướng tư tưởng cho bộ đội, thông qua các vụ vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, nhất là vi phạm pháp luật Nhà nước trong Quân đội. Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Vụ Pháp chế cần tiếp tục theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc các cơ quan tư pháp trực thuộc Bộ, Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp các quân khu và tương đương xây dựng, thực hiện chương trình, kế hoạch cải cách hằng năm, 6 tháng theo những trọng tâm nhiệm vụ cải cách tư pháp giai đoạn 2016 - 2020 của Quân ủy Trung ương. Tổ chức rút kinh nghiệm nghiêm túc, chặt chẽ và đề ra phương hướng, lộ trình thực hiện tiếp theo. Xây dựng, hoàn thiện các cơ chế phát huy vai trò của hệ thống cơ quan tư pháp, lấy Tòa án Quân sự làm trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm trong các hoạt động tư pháp của Quân đội. Trước mắt, tập trung thực hiện có hiệu quả thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự của Tòa án Quân sự, nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, giám định, kết luận tội phạm theo Luật Giám định tư pháp năm 2012 và khả năng tranh tụng, hiệu quả tố tụng tư pháp trong hoạt động xét xử, nhất là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Tiếp tục có quy chế phối hợp, mối quan hệ công tác trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tư pháp Quân đội; xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán để họ chủ động, độc lập quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định tố tụng của mình theo quy định của pháp luật. Phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp thực hiện có hiệu quả thẩm quyền xét xử của Tòa án Quân sự, tránh hiện tượng đùn đẩy, vi phạm pháp luật về tố tụng. Chủ động kiện toàn tổ chức, biên chế, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan: điều tra, an ninh, thi hành án quân sự cũng như cơ quan bổ trợ tư pháp; nghiên cứu, xây dựng mô hình trợ giúp pháp lý trong Quân đội, nhằm đáp ứng nhu cầu tư vấn pháp lý cả các vấn đề trong và ngoài Quân đội cho bộ đội. Trước sự chống phá mạnh mẽ của các thế lực thù địch, các hoạt động tư pháp trong Quân đội cần tập trung vào nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về quốc phòng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực quân sự, quốc phòng; tham gia xây dựng các dự án luật theo hướng: bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng, phù hợp với Hiến pháp, các bộ luật liên quan hiện hành và không để nợ, đọng văn bản. Hoàn thiện Đề án “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong Quân đội”, thông qua Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương để trình Bộ Chính trị xem xét quyết định và triển khai thực hiện. Sử dụng đúng mục đích, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của Chính phủ, theo kế hoạch thi công các dự án, công trình trụ sở làm việc, trại giam,… của ngành tư pháp Quân đội giai đoạn 2018 - 2020. Tiếp tục đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quan tâm bảo đảm cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật, phương tiện, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, góp phần tăng cường kỷ cương, kỷ luật, sức mạnh chiến đấu của Quân đội, bảo đảm cho Quân đội hoàn thành tốt sứ mệnh cao cả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Thượng tướng LÊ CHIÊM, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Bộ Quốc phòng
____________

1 - Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị.

Ý kiến bạn đọc (0)

Quân đội tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới
Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, trở thành một trong những trụ cột của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp - nền tảng vững chắc để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước