Thứ Sáu, 31/10/2025, 20:33 (GMT+7)
Bình luận - Phê phán Quốc phòng, quân sự nước ngoài
Trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo đang phát triển mạnh mẽ và được ứng dụng ngày càng nhiều vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngày 26/02/2025, tại Penang (Malaysia), Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN đã thông qua Tuyên bố chung về hợp tác trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực quốc phòng, nhằm bảo đảm an ninh và ổn định trong khu vực. Vậy, nội dung cơ bản, những khó khăn, thách thức và tác động của nó ra sao? Đây là vấn đề đang được dư luận quốc tế khá quan tâm.
Nội dung cơ bản của Tuyên bố chung
Với lợi thế và tiềm năng to lớn, trí tuệ nhân tạo (AI) đã và đang được nhiều quốc gia trên thế giới triển khai nghiên cứu, phát triển và ứng dụng ngày càng nhiều vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, hiện AI đang được ứng dụng nhiều trong xử lý thông tin dữ liệu lớn, nhận biết mục tiêu, giám sát mối đe dọa và nhận định tình huống, phát triển vũ khí thông minh, bảo đảm an ninh mạng và bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho các hoạt động chiến đấu, v.v. Để không bị bỏ lại trong cuộc đua sử dụng AI, ngày 26/02/2025, tại Penang (Malaysia), Hội nghị hẹp Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM hẹp) đã thông qua Tuyên bố chung về hợp tác AI trong lĩnh vực quốc phòng.
Theo Tuyên bố chung, quân đội các nước ASEAN sẽ tăng cường hợp tác quản trị, phát triển và sử dụng AI trên một số nội dung. (1) Công nhận bản chất kép của AI, thừa nhận tiềm năng chuyển đổi của AI trong việc nâng cao độ chính xác và hiệu quả hoạt động của các ứng dụng quốc phòng. (2) Thúc đẩy sử dụng AI có trách nhiệm và tuân thủ luật pháp quốc tế, cam kết sử dụng AI trong lĩnh vực quốc phòng có trách nhiệm, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là Luật Nhân đạo quốc tế và các hướng dẫn đạo đức liên quan đến AI, đồng thời thúc đẩy tính bao trùm trong việc phát triển AI và từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển AI giữa quân đội các nước. (3) Tăng cường hợp tác và xây dựng năng lực khu vực, khuyến khích quân đội các nước ASEAN tăng cường hợp tác trong việc nâng cao năng lực, chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và nghiên cứu chung về AI. (4) Tăng cường hợp tác phát triển và nâng cao kiến thức, năng lực chung về AI thông qua Mạng lưới phòng thủ mạng ASEAN, Trung tâm xuất sắc về an ninh mạng và thông tin ASEAN, Nhóm công tác chuyên gia (ADMM+) về an ninh mạng (khuyến khích Nhóm ADMM+ tích hợp AI trong các hoạt động, chủ động giải quyết các rủi ro và tác động của AI. (5) Tăng cường giám sát và có các biện pháp bảo vệ đạo đức, nhấn mạnh sự cần thiết của việc thực hiện các biện pháp bảo vệ thích hợp nhằm bảo đảm sự kiểm soát của con người đối với việc sử dụng vũ lực trong các ứng dụng AI, ngăn ngừa hậu quả không mong muốn và duy trì các tiêu chuẩn đạo đức trong các hoạt động quân sự liên quan đến AI.
Theo giới quan sát quốc tế, việc nghiên cứu, phát triển và sử dụng AI trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng của các nước ASEAN mới ở giai đoạn khai phá; trong đó, Singapore được coi là nước đi đầu, với việc thành lập: Cục Kỹ thuật quốc phòng, Cục An ninh mạng và thông tin, Trung tâm xuất sắc về an ninh mạng và thông tin ASEAN (hỗ trợ hợp tác kỹ thuật và chia sẻ thông tin với các nước ASEAN). Hiện ASEAN và Nhật Bản cũng đang xúc tiến kế hoạch hợp tác về AI và an ninh mạng, nhằm nâng cao khả năng quản lý và vận hành AI, phát triển kinh tế số và hệ thống cảnh báo sớm thiên tai. Trong 05 năm tới, Nhật Bản sẽ hỗ trợ ASEAN đào tạo khoảng 100.000 chuyên gia kỹ thuật số và bán dẫn. Ngoài ra, ASEAN cũng đang mở rộng hợp tác với Đức và Thổ Nhĩ Kỳ thông qua các Nhóm công tác chuyên gia ADMM+ nhằm thúc đẩy ứng dụng AI trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng.
Khó khăn, thách thức
Mặc dù đã có những bước tiến đáng kể trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI vào các lĩnh vực quốc phòng, song các nhà nghiên cứu cho rằng, các nước thành viên ASEAN vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Thứ nhất, sự chênh lệch về trình độ. Trên thực tế, mặt bằng công nghệ AI giữa các nước ASEAN vẫn có sự chênh lệch lớn. Hiện chỉ có Singapore, Thái Lan và Malaysia (các quốc gia dẫn đầu khu vực về phát triển nguồn lực AI) là đạt tiêu chuẩn vượt mức trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương về quản trị dữ liệu và an ninh mạng. Thứ hai, thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nguồn nhân lực kỹ thuật số. Theo một số thống kê, đến nay, có khoảng 61% thanh niên, thiếu niên ASEAN trong độ tuổi từ 10 đến 24 chưa được đào tạo kỹ thuật số tại các trường học; nhiều sinh viên công nghệ thông tin ra trường thiếu kỹ năng AI chuyên ngành, nhất là kỹ năng xử lý ngôn ngữ tự nhiên, khả năng giải thích, kiến trúc mô hình, v.v. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục của một số nước ASEAN chưa theo kịp sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; việc tiếp cận kiến thức về AI của sinh viên gặp khó khăn do nền tảng tiếng Anh không phải là thế mạnh; nhiều trường đại học vẫn tập trung đào tạo công nghệ thông tin truyền thống mà chưa bám sát nhu cầu thực tế của doanh nghiệp cũng như thị trường AI. Ngoài ra, khu vực ASEAN cũng đang phải đối mặt với tình trạng “chảy máu” nguồn nhân lực giỏi về AI do lực lượng này muốn ra nước ngoài làm việc. Thứ ba, sự thiếu đồng bộ trong bảo vệ dữ liệu. Trên thực tế, ASEAN chưa có bộ tiêu chuẩn thống nhất về bảo mật AI, mới chỉ có Singapore và Malaysia có luật bảo vệ dữ liệu cá nhân, các nước khác vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện khung pháp lý. Điều này khiến các nước gặp khó khăn khi triển khai các hệ thống liên khu vực hoặc hợp tác phát triển AI. Mặt khác, các nước có mức độ phát triển hạ tầng công nghệ và khung pháp lý khác nhau, nên khi chia sẻ dữ liệu dễ dẫn đến nguy cơ rò rỉ, truy cập trái phép hoặc dữ liệu bị lạm dụng. Thứ tư, thách thức về đạo đức và pháp lý. Trong bối cảnh AI phát triển nhanh và được ứng dụng ngày càng rộng rãi thì việc thiếu hiểu biết về công nghệ và đạo đức AI là vấn đề đáng quan ngại. Có nhiều chuyên gia công nghệ giỏi về kỹ thuật nhưng lại hiểu biết không sâu về đạo đức, pháp lý và các vấn đề xã hội hoặc các chuyên gia xã hội học, nắm vững đạo đức, luật pháp song lại thiếu kiến thức về AI, dẫn đến tình trạng khó đánh giá được rủi ro và không đưa ra khuyến nghị phù hợp.
Những tác động tích cực và vấn đề đặt ra
Theo các nhà nghiên cứu quốc tế, việc quân đội các nước ASEAN tăng cường hợp tác quản trị, nghiên cứu, phát triển và sử dụng AI trong lĩnh vực quốc phòng sẽ có những tác động không nhỏ đến môi trường an ninh khu vực, trong đó có cả những tác động tích cực và những vấn đề đặt ra cần quan tâm.
Về tác động tích cực. (1) Sự hợp tác này sẽ góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực. Theo đó, quân đội các nước có thể triển khai các chương trình, dự án hợp tác nghiên cứu, phát triển và sử dụng AI có trách nhiệm trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng phù hợp với các giá trị và lợi ích của Hiệp hội. Đồng thời, thể hiện tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, sự giám sát của con người, thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin và cách giải quyết các thách thức an ninh chung,… từ đó, định hình các quy tắc, chuẩn mực để hướng dẫn việc sử dụng AI cho mục đích quân sự, quốc phòng. (2) Nâng cao khả năng nhận biết tình huống trên các môi trường và giảm nguy cơ tính toán sai lầm. Việc sử dụng AI để nhận biết, cảnh báo sớm và ứng phó kịp thời với các tình huống trên không, trên biển, môi trường mạng (theo thời gian thực) đang là vấn đề rất quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Điều này không những giúp người chỉ huy đưa ra quyết định xử lý tình huống phù hợp, mà còn giúp các nhà hoạch định chính sách dự báo được các nguy cơ. (3) Hỗ trợ công tác quản lý và xử lý khủng hoảng. Các công cụ lập kế hoạch sử dụng AI sẽ giúp quân đội các nước ASEAN tăng cường quản lý khủng hoảng hoặc giảm leo thang căng thẳng trong khu vực, đồng thời đánh giá được các rủi ro và hậu quả của các phương án tác chiến thông qua việc mô phỏng các kịch bản vùng xám thực tế. Ngoài ra, nó còn có thể hỗ trợ quân đội các nước xây dựng kế hoạch dự phòng, đưa ra các giải pháp xây dựng lòng tin nhằm ngăn ngừa hiểu lầm và leo thang ngoài ý muốn. (4) Giúp chuyển hóa các nguồn dữ liệu thành thông tin quân sự một cách nhanh chóng. Trong tương lai, nếu chiến tranh xảy ra, lượng dữ liệu thông tin tác chiến sẽ rất lớn và những người xử lý lượng thông tin này sẽ gặp rất nhiều khó khăn, song với sự trợ giúp của AI, việc chuyển hóa các dữ liệu quân sự khổng lồ này thành các nguồn tin quân sự tin cậy sẽ trở nên dễ dàng, khi đó sẽ giúp trung tâm chỉ huy rút ngắn quá trình đưa ra quyết định, v.v.
Một số vấn đề đặt ra. Bên cạnh những tác động tích cực, việc hợp tác trên lĩnh vực này cũng đặt ra một số vấn đề đòi hỏi quân đội các nước ASEAN cần quan tâm và có giải pháp phòng ngừa. (1) Gia tăng nguy cơ xảy ra xung đột trong khu vực. Mặc dù AI có thể giúp quân đội các nước ASEAN duy trì sự ổn định trong khu vực, nhưng nếu không kiểm soát tốt vẫn có thể dẫn đến nguy cơ xảy ra xung đột. Bởi, việc giảm thiểu sự hiện diện của người lính trên chiến trường có thể khiến người ta có nhận thức sai lệch, xa rời thực tế về hậu quả của chiến tranh, đó là: nếu tổn thất về sinh lực được loại bỏ hoặc giảm thiểu, khi đó chiến tranh sẽ được coi là một biện pháp để giải quyết tranh chấp hay thực hiện các mục tiêu ngoại giao vị kỷ - nhân tố tiềm ẩn nguy cơ xung đột. (2) Nguy cơ vi phạm luật pháp quốc tế và nguyên tắc đạo đức. Việc ứng dụng AI vào lĩnh vực quân sự, quốc phòng, nhất là phát triển vũ khí tự động hóa sẽ dẫn đến khả năng AI có thể tự động lựa chọn và tấn công mục tiêu mà không cần sự cho phép của con người. (3) Gia tăng nguy cơ tấn công mạng và AI độc hại, như: giả mạo danh tính, lừa đảo trực tuyến, quấy rối, nói xấu công khai hoặc gây hại, tạo các mô hình độc hại tấn công mạng lưới hạ tầng quốc gia, gây nhiễu dữ liệu đầu vào hệ thống máy tính liên khu vực, v.v. (4) Làm thay đổi phương thức tiến hành chiến tranh. Nếu các cuộc chiến tranh truyền thống trước đây, người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu trên chiến trường, thì trong tương lai, với việc sử dụng công nghệ AI, phương thức tiến hành chiến tranh sẽ là “phi trực tiếp, phi tiếp xúc”. Khi đó, để đánh bại một quốc gia, người ta chỉ cần tập trung phá hủy cơ sở hạ tầng công nghệ về chiến tranh của đối phương, tuy nhiên điều này có thể đẩy an ninh khu vực và quốc tế vào tình trạng bất ổn hơn.
Có thể khẳng định, tuyên bố chung của Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN về hợp tác AI trong lĩnh vực quốc phòng được coi là khuôn khổ pháp lý quan trọng để quân đội các nước ASEAN đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu, phát triển và sử dụng AI. Tuy nhiên, để đạt được mục đích đặt ra, đòi hỏi các bên cần nỗ lực nhiều hơn nữa, cùng chung tay giải quyết những khó khăn, thách thức đặt ra. Có như vậy, việc hợp tác sử dụng AI mới ngày càng hiệu quả, góp phần giữ vững hòa bình và ổn định trong khu vực và thế giới.
NGUYỄN KHANH - HUY SAN1 ________________________
1 - Giảng viên Trung tâm Giáo dục quốc phòng - an ninh, Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật công nghiệp.
Hợp tác phát triển,trí tuệ nhân tạo,quân đội các nước ASEAN,tuyên bố chung,khuôn khổ pháp lý
Vài nét về xu hướng hiện đại hóa vũ khí, trang bị của Nhật Bản 27/10/2025
Hệ thống phòng thủ tên lửa “Vòm Vàng” của Mỹ, triển vọng và tác động 20/10/2025
Xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển của thế giới trong bối cảnh mới 22/09/2025
Thông điệp từ cuộc tập trận Talisman Sabre 2025 18/09/2025
Kịch bản kết thúc cuộc xung đột Nga - Ukraine 24/08/2025
Dịch chuyển cấu trúc chiến lược giữa hai bờ Đại Tây Dương 20/08/2025
Bắc Cực trước vòng xoáy cạnh tranh chiến lược mới 07/08/2025
Vài nét về phát triển tàu ngầm trong chiến tranh hiện đại 28/07/2025
Xu hướng hiện đại hóa vũ khí, trang bị lục quân của các quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương 26/05/2025
Đôi nét về chiến lược phòng thủ mới của Liên minh châu Âu, những tác động đến an ninh khu vực và quốc tế 15/05/2025
Hệ thống phòng thủ tên lửa “Vòm Vàng” của Mỹ, triển vọng và tác động
Vài nét về xu hướng hiện đại hóa vũ khí, trang bị của Nhật Bản