Thứ Sáu, 14/11/2025, 04:29 (GMT+7)
Bình luận - Phê phán Phòng, chống "DBHB"; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số đã tạo ra những thay đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội. Do đó, xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất mới đã và đang trở thành đòi hỏi khách quan, là nhân tố có ý nghĩa quyết định nâng cao năng suất lao động, động lực đột phá đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới - yêu cầu cấp bách trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ đời sống xã hội, là yếu tố quyết định sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, sự phát triển của lực lượng sản xuất luôn kéo theo những biến đổi sâu sắc trong quan hệ sản xuất, tạo bước ngoặt trong phương thức sản xuất và cấu trúc xã hội. Ngày nay, người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động vào tổ chức kiểu sản xuất mới với năng suất lao động cao; còn tư liệu sản xuất không những bao gồm công cụ, phương tiện vật chất, đối tượng lao động mà đã mở rộng đến các nền tảng kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, hạ tầng công nghệ hiện đại, v.v. Như vậy, có thể khái quát lực lượng sản xuất mới là biểu hiện của sự phát triển cao sức sản xuất xã hội trong điều kiện lịch sử mới, khi các yếu tố cấu thành nên quá trình sản xuất vật chất đều được cải tiến một cách đồng bộ, hiện đại. Đó không chỉ là sự phát triển về công cụ, kỹ thuật, công nghệ mà còn là sự thay đổi toàn diện về chất lượng và năng lực của người lao động với tư cách là chủ thể trung tâm của quá trình sản xuất vật chất.
Đặc biệt, trong điều kiện một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới đang trở thành yêu cầu khách quan từ quy luật phát triển của quá trình sản xuất vật chất. Đồng thời, là đòi hỏi cấp bách nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đây là “kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu”1. Kỷ nguyên vươn mình của đất nước đặc trưng bởi tốc độ hiện đại hóa nhanh, khả năng chủ động hội nhập quốc tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tri thức hóa, số hóa và xanh hóa. Trong tiến trình này, lực lượng sản xuất cũ - vốn dựa trên nền tảng lao động thủ công, bán cơ khí, tư liệu sản xuất truyền thống - không đủ sức đáp ứng các yêu cầu phát triển mới. Do đó, xây dựng lực lượng sản xuất mới với nòng cốt là con người tri thức, công nghệ hiện đại và dữ liệu số,… trở thành yêu cầu bắt buộc để hiện thực hóa khát vọng vươn mình của Việt Nam.
Nhận thức rõ tầm quan trọng chiến lược của vấn đề này, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số”2. Quan điểm trên thể hiện tầm nhìn lý luận sâu sắc và sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện phát triển mới. Điều đó không có nghĩa là chúng ta “xét lại” chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng không phải chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, không còn giá trị như luận điệu mà các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, bóp méo. Ngược lại, chúng ta đang bổ sung, phát triển, làm cho quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin có thêm sức sống mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và bối cảnh ngày nay.
Vấn đề đặt ra là, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động đến mọi khía cạnh đời sống xã hội theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực; sự cạnh tranh công nghệ ngày càng gay gắt,... làm thế nào để Việt Nam xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, tiên tiến, bắt kịp thời đại nhưng vẫn xử lý được mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm sự đồng thuận và phù hợp về mặt thể chế, tránh những điểm nghẽn từ cơ chế, chính sách cũ làm cản trở đổi mới và đạt được mục tiêu phát triển bền vững?
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, trước hết cần xem xét biện chứng cơ sở để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới trong giai đoạn hiện nay.
Cơ sở lý luận, thực tiễn để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới - động lực đột phá cho sự phát triển của quốc gia trong kỷ nguyên vươn mình
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là phạm trù trung tâm, mang tính nền tảng, quyết định trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, nó sẽ làm biến đổi quan hệ sản xuất và kéo theo sự thay đổi của toàn bộ kiến trúc thượng tầng xã hội. Như vậy, mọi sự chuyển biến về chất của hình thái kinh tế - xã hội xét đến cùng đều bắt nguồn từ sự biến đổi, sự hoàn thiện ngày càng cao và sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Trên cơ sở kế thừa, phát triển tư tưởng của Mác, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định: phát triển lực lượng sản xuất là yêu cầu khách quan; đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại khi xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô-viết cộng với điện khí hóa toàn quốc... Chỉ khi nào nước ta đã điện khí hóa, chỉ khi nào công nghiệp, nông nghiệp và vận tải đã đứng vững trên cơ sở kỹ thuật của đại công nghiệp hiện đại, thì lúc đó, chúng ta mới có thể đạt được thắng lợi hoàn toàn”3. Quan điểm ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người luôn coi lao động là yếu tố trung tâm trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa”4. Lời dạy của Người không những thể hiện tư tưởng chỉ đạo về mục tiêu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa mà còn khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nguồn lực con người - nhân tố quan trọng cấu thành lực lượng sản xuất mới - đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa quan điểm và tư tưởng đó, Đảng ta luôn đề cao nhiệm vụ phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất song song với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp, coi đây là quy luật cơ bản để định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, mỗi giai đoạn phát triển của đất nước đều gắn liền với sự chuyển mình của lực lượng sản xuất. Sau thắng lợi 1975, đất nước bước vào kỷ nguyên thống nhất và đổi mới, tập trung phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa năng suất lao động và tiềm lực quốc gia lên tầm cao mới. Đến nay, thành quả gần 40 năm đổi mới đã tạo tiền đề vững chắc để đất nước bước vào giai đoạn bứt phá, phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Bước ngoặt lịch sử này phản ánh yêu cầu khách quan phải có bước đột phá, tăng tốc, nâng tầm vị thế, uy tín quốc gia, phù hợp với xu thế thời đại. Đặc biệt, Đảng ta nhận định cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những thành tựu đột phá đang mở ra thời cơ phát triển chưa từng có, quốc gia nào tận dụng được sẽ tạo bứt phá đi lên. Đây chính là “chìa khóa” để Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới.
Ở bình diện rộng hơn chúng ta có thể thấy, phát triển lực lượng sản xuất mới, hiện đại không chỉ là nhu cầu nội tại, nhân tố quyết định để đất nước tăng tốc bứt phá, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, mà còn là tiền đề để Việt Nam có đủ khả năng, đủ tự chủ, tự tin hội nhập quốc tế, không bị tụt lại phía sau trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.
Thực tiễn phát triển đất nước trong những năm qua cho thấy, lực lượng sản xuất ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Việt Nam đã bước đầu hình thành nền tảng kinh tế số; nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ; cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng hiện đại; chú trọng đào tạo đội ngũ lao động chất lượng cao; nhiều ngành nghề, lĩnh vực sản xuất mới ra đời dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước ta đã xác định chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo là con đường tất yếu, động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.
Định hướng chiến lược của Đảng đã, đang được hiện thực hóa bằng nhiều hành động cụ thể. Hạ tầng viễn thông - công nghệ thông tin trong nước phát triển nhanh, mạng 4G, 5G mở rộng; hệ thống cáp quang, trung tâm dữ liệu được đầu tư đồng bộ. Nhiều nền tảng số quốc gia ra đời, như: Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cổng Dịch vụ công quốc gia, các hệ thống thông tin quản lý đã kết nối các bộ, ngành, địa phương, tạo nền tảng cho Chính phủ điện tử, tiến tới Chính phủ số. Doanh nghiệp Việt Nam ngày càng làm chủ công nghệ mới, các tập đoàn, như: Viettel, FPT, VNPT,… đã nghiên cứu sản xuất thiết bị 5G, phát triển nền tảng điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, góp phần hình thành hệ sinh thái số sản xuất tại Việt Nam. Ngoài ra, lĩnh vực công nghệ cao (điện tử, chế tạo chip, năng lượng mới, sinh học,...) đang được khuyến khích phát triển, tạo ra những ngành nghề, sản phẩm mới cho nền kinh tế. Tất cả những yếu tố trên đang dần định hình một lực lượng sản xuất mới dựa trên tri thức và công nghệ hiện đại - tiền đề để Việt Nam tăng tốc vươn lên.
Về mặt thể chế, trên cơ sở Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đã ký, ban hành Nghị quyết số 71/NQ-CP về sửa đổi, bổ sung cập nhật Chương trình hành động của Chính phủ với mục tiêu thể chế hóa, thực hiện đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW. Đồng thời, xác định nhiệm vụ cụ thể để các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch hành động, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, hiện thực hóa mục tiêu đưa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.
Tuy đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng, song thực tiễn phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, cần được nhận diện rõ và có giải pháp khắc phục kịp thời, hiệu quả. Đó là, chất lượng nguồn nhân lực vẫn là điểm nghẽn lớn trong quá trình phát triển. Sáu tháng đầu năm 2025, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53 triệu người, nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ mới đạt 29%5. Con số này cho thấy phần lớn lao động vẫn thiếu kỹ năng nghề nghiệp và chuyên môn cần thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, cũng như khả năng tiếp cận, làm chủ các công nghệ hiện đại. Tiếp đó, lao động phi chính thức vẫn chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng duy trì ở mức cao. Theo thống kê, sáu tháng đầu năm 2025, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 63,9% tổng số lao động có việc làm6. Đây là lực lượng thường không có hợp đồng lao động, không được bảo đảm các quyền lợi cơ bản về bảo hiểm, y tế, chế độ thai sản,... dẫn tới tình trạng việc làm thiếu bền vững và dễ tổn thương trước biến động kinh tế - xã hội.
Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch còn chậm và thiếu tính đột phá. Sáu tháng đầu năm 2025, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,28%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,96%; khu vực dịch vụ chiếm 43,40%7; số liệu cho thấy khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn chiếm tỷ lệ cao so với xu hướng phát triển hiện đại, trong khi các ngành công nghiệp chế biến, công nghệ cao và dịch vụ tri thức chưa thực sự trở thành động lực chủ đạo của nền kinh tế.
Khả năng ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất của các doanh nghiệp còn hạn chế. Dù đã đạt được nhiều tiến bộ về đổi mới công nghệ, nhưng phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn chưa đủ nguồn lực và năng lực tiếp cận, triển khai công nghệ tiên tiến vào quy trình sản xuất. Hệ quả là hiệu quả kinh tế còn thấp, năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được nâng cao. Đáng chú ý, sự thiếu liên kết giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn còn hạn chế. Chính sự rời rạc trong hợp tác, chia sẻ thông tin, công nghệ, kinh nghiệm quản lý đã làm chậm quá trình lan tỏa tri thức, giới hạn cơ hội tiếp cận công nghệ hiện đại và hạn chế khả năng phát triển lực lượng sản xuất mang tính tự chủ, sáng tạo, bền vững của các doanh nghiệp trong nước.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể thấy, xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, hiện đại, ngang tầm yêu cầu của thời kỳ phát triển mới là đòi hỏi khách quan cả về lý luận và thực tiễn, cần có những chính sách đồng bộ, đột phá chiến lược nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Định hướng, giải pháp xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới - động lực đột phá cho sự phát triển của quốc gia trong kỷ nguyên vươn mình
Để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới đáp ứng sự phát triển vươn mình của dân tộc Việt Nam, cần có chiến lược, định hướng dài hạn và giải pháp tổng thể, toàn diện, lâu dài; trong đó, tập trung vào một số vấn đề cốt lõi sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển, bảo đảm hành lang pháp lý cho lực lượng sản xuất mới. Trong tiến trình xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay, thể chế phát triển và hành lang pháp lý có vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là động lực thúc đẩy, vừa là nền tảng bảo đảm cho các yếu tố của lực lượng sản xuất mới phát triển hiệu quả và bền vững. Do đó, tiếp tục hoàn thiện thể chế, bảo đảm hành lang pháp lý cho lực lượng sản xuất mới là một trong những giải pháp có ý nghĩa quyết định. Trước hết, cần tập trung hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo hướng kiến tạo phát triển, khuyến khích đổi mới sáng tạo, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và chuyển đổi số toàn diện. Trong đó, việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các luật liên quan đến khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, sở hữu trí tuệ, bảo vệ dữ liệu cá nhân, an ninh mạng, kinh tế số,... cần được đẩy nhanh, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu phát triển của nền kinh tế số hiện đại. Đồng thời, chú trọng xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, ổn định và nhất quán nhằm khuyến khích doanh nghiệp, người lao động và các thành phần kinh tế yên tâm đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng, phát triển công nghệ mới. Đồng thời, cần có cơ chế đặc thù, ưu đãi vượt trội cho các lĩnh vực ưu tiên, như: công nghệ cao, công nghệ số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo và các ngành công nghiệp mới nổi.
Song song với đó, tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, người dân trong hoạt động đổi mới sáng tạo và phát triển lực lượng sản xuất mới. Đây chính là yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy liên kết, hợp tác công - tư, tạo động lực cho các doanh nghiệp đầu tư, phát triển. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước trong bối cảnh kinh tế số, nhất là quản lý hoạt động trên không gian mạng, giao dịch điện tử và tài sản số. Qua đó, góp phần tạo lập môi trường pháp lý thông thoáng, công khai, minh bạch, an toàn, lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ và bền vững.
Hai là, phát triển toàn diện nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Thực tiễn cho thấy, nhân tố con người luôn giữ vai trò trung tâm, quyết định trực tiếp đến hiệu quả và tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì vậy, phát triển toàn diện nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một trong những giải pháp có tính chiến lược, lâu dài và đặc biệt cấp thiết trong xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới hiện nay. Thực hiện giải pháp này, trước mắt, cần nhanh chóng triển khai thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo trong toàn quốc. Đặc biệt nhấn mạnh việc đổi mới chương trình, phương pháp, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, gắn đào tạo với nhu cầu thị trường lao động, với nhu cầu của nền kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và hội nhập quốc tế. Coi trọng đổi mới, đột phá nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực, kỹ năng nghề nghiệp và khả năng thích ứng với yêu cầu của xã hội tri thức. Cùng với đó, xây dựng chính sách đãi ngộ thỏa đáng, môi trường làm việc sáng tạo, chuyên nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút, bồi dưỡng, sử dụng hiệu quả nhân tài trong và ngoài nước. Đồng thời, tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng, trí tuệ và khát vọng cống hiến, đóng góp của Nhân dân; khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong toàn dân.
Ngoài ra, chú trọng đào tạo lại, đào tạo nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động đang làm việc, nhất là trong các lĩnh vực chịu tác động mạnh mẽ của chuyển đổi số nhằm thích ứng linh hoạt với yêu cầu mới của thị trường lao động và sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ. Mặt khác, tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực, mở rộng giao lưu, học hỏi kinh nghiệm tiên tiến trên thế giới; phát triển mạnh hệ thống học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập toàn dân. Từng bước hình thành đội ngũ lao động Việt Nam có trình độ cao, đủ năng lực cạnh tranh, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, thích ứng hiệu quả trong kỷ nguyên vươn mình, hội nhập và phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Ba là, tăng cường đầu tư nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, tri thức, khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, quyết định năng lực cạnh tranh và tốc độ phát triển của mỗi quốc gia. Do đó, việc tăng cường đầu tư nghiên cứu, phát triển cần được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và các chủ thể khác. Bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về khoa học - công nghệ, cần ưu tiên bố trí nguồn lực, ngân sách nhà nước hợp lý cho hoạt động nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ. Cùng với đó, cần khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp quốc phòng - an ninh tích cực tham gia đầu tư, tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển, tạo thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đồng bộ, hiệu quả. Chú trọng phát triển các trung tâm nghiên cứu, viện khoa học, khu công nghệ cao, khu đổi mới sáng tạo quốc gia có quy mô lớn, năng lực mạnh, kết nối chặt chẽ giữa nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức khoa học - công nghệ. Xây dựng những “hạt nhân” quan trọng để hình thành và lan tỏa tri thức, thúc đẩy phát triển công nghệ mới, sản phẩm mới và mô hình kinh doanh mới phù hợp xu hướng toàn cầu. Bên cạnh đó, đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Điều này đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục - đào tạo với doanh nghiệp, viện nghiên cứu nhằm phát triển đội ngũ trí thức, nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành có năng lực nghiên cứu, phát minh, sáng chế công nghệ tiên tiến.
Bốn là, xây dựng hạ tầng số hiện đại, đồng bộ và an toàn. Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định, là nền tảng cơ bản cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, cơ sở hạ tầng là những điều kiện vật chất, kỹ thuật,... tồn tại trong xã hội, môi trường dùng để phục vụ mọi hoạt động đời sống, sản xuất của con người. Như vậy, hạ tầng số với tư cách là một trong những thành tố cấu thành cơ sở hạ tầng đã, đang trở thành yếu tố nền tảng, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới. Do vậy, một trong những giải pháp đột phá cần tập trung thực hiện trong thời gian tới là xây dựng hạ tầng số hiện đại, đồng bộ và an toàn. Để làm được điều đó, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, quy hoạch phát triển hạ tầng số quốc gia, đảm bảo đồng bộ, liên thông giữa các ngành, lĩnh vực, vùng, miền. Trọng tâm là xây dựng hạ tầng viễn thông số tốc độ cao, mạng 5G phủ rộng khắp, bảo đảm khả năng kết nối thông suốt giữa các trung tâm dữ liệu, các cơ quan, tổ chức và người dân trên phạm vi cả nước. Đẩy mạnh phát triển hạ tầng dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), trung tâm dữ liệu quốc gia và các nền tảng số dùng chung, phục vụ hiệu quả cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý và điều hành xã hội. Đồng thời, xây dựng hệ thống hạ tầng an toàn thông tin, an ninh mạng vững chắc, bảo đảm khả năng phòng, chống, ứng phó hiệu quả với các nguy cơ tấn công mạng, từng bước hình thành “không gian số an toàn” trong tình hình mới, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Tạo môi trường thuận lợi, vững chắc cho lực lượng sản xuất mới phát triển nhanh, bền vững và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế số toàn cầu.
Năm là, tăng cường hội nhập quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc tăng cường hội nhập quốc tế và làm chủ công nghệ cao là xu thế tất yếu, yêu cầu cấp bách đối với quá trình xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn, đòi hỏi phải có những định hướng, chính sách, giải pháp phù hợp, kịp thời, hiệu quả. Vì vậy, cần tiếp tục chủ động, tích cực tham gia các tổ chức quốc tế, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là những cam kết về chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn chất lượng và phát triển bền vững. Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam tiếp cận nhanh hơn với tri thức và công nghệ tiên tiến của thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Bên cạnh đó, phải xây dựng chiến lược làm chủ và phát triển công nghệ cao phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước. Trong đó, ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực công nghệ lõi, công nghệ số, công nghệ quốc phòng - an ninh, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, vật liệu mới, công nghệ sinh học,… từng bước nâng cao nội lực và khả năng sáng tạo khoa học - công nghệ của quốc gia. Ngoài ra, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế về nghiên cứu, chuyển giao công nghệ; hình thành, phát triển các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Qua đó, góp phần nâng cao vị thế quốc gia, phát triển lực lượng sản xuất mới hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới là yêu cầu khách quan, tất yếu, phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lựa chọn chiến lược của Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Đây là mục tiêu, sứ mệnh lịch sử mang tính cách mạng trong bối cảnh hiện nay; là nhiệm vụ của hệ thống chính trị và trách nhiệm chung của toàn xã hội, nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Bác Hồ đã hằng mong ước./.
Trung tá, ThS. KHƯƠNG VĂN VƯỢNG, Tạp chí Quốc phòng toàn dân _____________________
1 - https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-vie
2 - https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/chuyen-doi-so-dong-luc-quan-trong-phat-trien-luc-luong-san-xuat-hoan-thien-quan-he-san-xuat-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi
3 - V.I. Lê-nin – Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, tr. 195.
4 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 12, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 604.
5 - Cục Thống kê, Bộ Tài chính, Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế – xã hội quý II và sáu tháng đầu năm 2025, https://www.nso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2025/07/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-ii-va-sau-thang-dau-nam-2025/
6 - Sđd.
7 - Sđd.
Lực lượng sản xuất mới,người lao động,tư liệu sản xuất động lực,đột phá,kỷ nguyên vươn mình,nền tảng kỹ thuật số,trí tuệ nhân tạo,dữ liệu lớn
Những đóng góp to lớn của Ph. Ăngghen đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học 07/11/2025
Không thể xuyên tạc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân 06/11/2025
Không thể xuyên tạc, phủ nhận cuộc cách mạng tinh, gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Việt Nam 03/11/2025
Phản bác luận điệu phủ nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam 06/10/2025
Sáp nhập địa giới hành chính - bước đi chiến lược để phát triển đất nước 18/09/2025
Xây dựng Quân đội hiện đại - tầm nhìn chiến lược của Đảng, mệnh lệnh từ yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, không thế lực nào có thể xuyên tạc 15/09/2025
Quân đội tích cực đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam 15/09/2025
Cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc về kỷ luật trong Quân đội 08/09/2025
Đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu của cách mạng Việt Nam - sự thật không thể xuyên tạc 03/09/2025
Từ Cách mạng Tháng Tám đến Quốc khánh 02/9 - dòng chảy chính nghĩa không thể đảo ngược 28/08/2025
Không thể xuyên tạc, phủ nhận cuộc cách mạng tinh, gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Việt Nam
Những đóng góp to lớn của Ph. Ăngghen đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học
Không thể xuyên tạc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân