Thứ Sáu, 31/10/2025, 04:58 (GMT+7)
Nghiên cứu - Tìm hiểu Nghiên cứu - Trao đổi
Cuối tháng 5-2013, tại Diễn đàn Đối thoại an ninh châu Á – Thái Bình Dương lần thứ 12 (Shangri-La 12), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhắc đến khái niệm “Lòng tin chiến lược” giữa các quốc gia. Vấn đề trên được nêu ra tại diễn đàn quan trọng trong bối cảnh khu vực đang diễn biến phức tạp nên đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều học giả, chính khách của các quốc gia trên thế giới.
Nội hàm khái niệm “lòng tin chiến lược” đề cập đến sự tin tưởng và hợp tác giữa các quốc gia để giảm thiểu bất đồng, cùng nhau xây dựng nền hòa bình và sự ổn định trong khu vực. Để đạt được sự tin cậy, các quốc gia có mâu thuẫn, bất đồng cùng nhau xây dựng lộ trình để từng bước giải quyết các tranh chấp giữa hai nước hoặc nhiều nước, nhiều bên; trước hết, thường xuyên tiến hành các cuộc gặp gỡ cấp cao, nhất là các cấp quốc phòng... Quan hệ giữa các quốc gia chỉ có thể đi vào chiều sâu và phát triển bền vững khi có lòng tin đối với nhau; bởi không có lòng tin sẽ không có hợp tác thực chất và khó có thể cùng nhau giải quyết các vấn đề bất đồng, nhạy cảm.
Trong xu thế toàn cầu hóa, việc các nước tăng cường hợp tác, nhất là hợp tác về quốc phòng là một nhu cầu lớn và việc tăng cường lòng tin ngày càng trở nên quan trọng. Xây dựng lòng tin là điều kiện cần để hình thành và thúc đẩy hợp tác. Trong thực tiễn, quan hệ giữa các nước và quân đội, các biện pháp xây dựng lòng tin luôn được coi trọng, nhưng những khác biệt về lợi ích, về lịch sử, văn hóa, chính trị, hệ thống giá trị là những vấn đề có thể làm nảy sinh nghi ngờ. Nguyên nhân dẫn đến nghi ngờ có thể xuất phát từ những định kiến về quá khứ; cách tiếp cận khác nhau đối với lợi ích hoặc bắt nguồn từ những tồn tại do lịch sử để lại. Trong những trường hợp như thế, các quốc gia, các chủ thể quan hệ quốc tế cảm thấy chưa thật tin tưởng nhau cũng là phản ứng tự nhiên. Trong đời sống quốc tế, để tồn tại và phát triển, các quốc gia phải quan hệ với nhau, nhưng ở chừng mực nhất định còn chưa thực lòng, che giấu mục tiêu chiến lược và biện pháp thực hiện... Điều đó dễ dẫn tới thiếu công bằng trong quan hệ hợp tác, nhất là những vấn đề liên quan tới lợi ích. Ngoài ra, việc thiếu thông tin và các kênh giao tiếp hoặc thông tin bị sai lệch, bóp méo..., cũng là một trong những nguyên nhân hạn chế sự hiểu biết lẫn nhau, thậm chí dẫn tới sự thù địch giữa các quốc gia.
Xây dựng lòng tin trong quan hệ quốc tế
Trong quan hệ quốc tế hiện nay, các nước đều coi “lợi ích quốc gia, dân tộc” là nguyên tắc hàng đầu trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Khi thiết lập quan hệ với bất kỳ quốc gia, tổ chức quốc tế nào người ta đều tính đến quyền lợi quốc gia, dân tộc có thể đạt được trước khi nhắc đến trách nhiệm của quốc gia mình đối với các đối tác; đồng thời, cũng không ít quốc gia đã, đang lấy nguyên tắc này làm cơ sở để xác định mức độ tin cậy trong quan hệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế khác, dù đó là tổng thể các quan hệ hay trong từng trường hợp cụ thể. Một nguyên tắc khác cũng được nhiều nước tuân thủ trong chính sách đối ngoại, đó là “độc lập, tự chủ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”.
Mặc dù trong quan hệ hợp tác, quốc gia nào cũng thấy sự cần thiết phải xây dựng lòng tin ở nhau, nhưng trên thực tế việc thực hiện không dễ dàng; phải đi theo lộ trình từng bước, nhất là giữa các nước từng có tranh chấp, xung đột trong quá khứ. Chỉ cần một bên hoặc cả hai bên còn nghi ngờ nhau thì thành quả xây dựng lòng tin hàng chục năm có thể nhanh chóng biến mất, hoặc chí ít là chệch hướng trong hợp tác, nặng hơn là cắt đứt quan hệ ngoại giao, nghiêm trọng hơn là xảy ra xung đột vũ trang và chiến tranh. Trong tình huống hai bên có chênh lệch về sức mạnh quân sự cũng như sức mạnh tổng hợp, nước nhỏ hơn, yếu hơn có nhiều lý do để nghi ngờ động cơ và hành vi của nước lớn hơn, mạnh hơn. Chính vì vậy, các nước lớn càng cần phải có trách nhiệm cao trong việc xây dựng lòng tin nhằm xóa bỏ sự nghi kị của nước nhỏ.
Bên cạnh đó, việc xây dựng lòng tin trong quan hệ quốc tế còn liên quan đến nhận thức chủ quan vốn bị tác động bởi định kiến, hiểu nhầm, chủ yếu do thiếu thông tin và xử lý sai thông tin nhận được. Do đó, yếu tố thông tin và kỹ năng xử lý thông tin chính xác là nội dung quan trọng trong xây dựng lòng tin giữa các nước. Mặt khác, dưới một góc độ nào đó, lòng tin còn được hiểu là sự thu hẹp khoảng cách giữa lời nói “tăng cường hợp tác” với việc làm; sự nhất quán giữa cái cụ thể và vấn đề toàn cục để tiến tới hợp tác thực chất. Quan hệ đối ngoại cũng tương tự quan hệ giữa người với người, để tạo và giữ được lòng tin, cần có hai điều kiện cơ bản: phải giữ chữ “tín” và minh bạch về chính sách lẫn hành động. Xây dựng lòng tin trong quan hệ quốc tế còn được hiểu là tăng cường hợp tác, giao lưu để hiểu biết lẫn nhau, để thay đổi các định kiến về nhau và tạo những động lực (ở trong nội bộ) tăng cường lòng tin, thúc đẩy hợp tác. Một điều hết sức cần thiết nữa là, phải cùng nhau xây dựng các cơ chế giám sát, kiểm tra để quốc gia mình và quốc gia đối tác thực hiện đúng cam kết. Việc cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác (qua lời nói) hoặc tạo cơ sở để người khác dự báo được hành động của mình (qua việc làm) cũng là nội dung chính của xây dựng lòng tin.
Thực tế xây dựng lòng tin trong khu vực thời gian qua
Hiện nay, trong khu vực Đông Nam Á, có khá nhiều cơ chế hợp tác an ninh đa phương với sự tham gia của quân đội các nước trong và ngoài khu vực, như: Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)... Trong đó, ARF được coi là diễn đàn đối thoại an ninh chính trị đa phương rộng lớn và quan trọng nhất ở khu vực. Kể từ khi thành lập đến nay, ARF đã đưa ra hàng loạt biện pháp xây dựng lòng tin, bao gồm tăng cường giao lưu quân sự, tăng cường tính công khai trong hoạt động quân sự, quốc phòng... Thông qua ARF, các quốc gia đã tiến hành các cuộc đối thoại và tư vấn song phương, đa phương; thiết lập các quy tắc đối thoại và hợp tác, ra quyết định dựa trên sự đồng thuận và không can thiệp lẫn nhau. Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, thông qua các biện pháp của ARF, như: trao đổi thông tin liên quan đến chính sách quốc phòng, công bố Sách trắng Quốc phòng, thông báo và mời quan sát viên tham dự các cuộc diễn tập quân sự lớn... Qua đó, các bên tham gia đã từng bước củng cố lòng tin lẫn nhau và thể hiện sự minh bạch của mình.
Từ năm 2008 đến nay, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã tham gia ngày càng đầy đủ, tích cực và chủ động hơn vào các hoạt động của ARF. Tham gia ARF, Quân đội nhân dân Việt Nam đã nâng cao vị thế của mình; tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác, xây dựng lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước thành viên; có điều kiện tìm hiểu các quan điểm, kinh nghiệm của các nước về quốc phòng, an ninh, nhất là công tác đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học, cứu hộ cứu nạn, góp phần tích cực vào gìn giữ hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực; đồng thời, tạo môi trường thuận lợi phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trên cơ sở tham gia vào một số thể chế quân sự đa phương, như: ADMM; ADMM+; Hội nghị người đứng đầu quân đội các nước ASEAN (ACDFIM)..., Bộ Quốc phòng Việt Nam đã tích cực xây dựng lòng tin và đóng góp nhiều sáng kiến nhằm giải quyết những vấn đề nổi cộm của khu vực. Đặc biệt, năm 2010, với cương vị là nước chủ nhà, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã lần đầu tiên khởi xướng, chủ trì và tổ chức thành công ADMM+ gồm 10 nước thành viên và 8 nước đối tác (Ô-xtrây-li-a, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Niu Di-lân, Liên bang Nga và Hoa Kỳ). Đây là dấu mốc quan trọng, bởi lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Bộ trưởng Quốc phòng các nước khu vực cùng hầu hết các nước lớn ngồi lại với nhau, không phải để bàn thảo về chiến tranh, mà cùng nhau thảo luận thúc đẩy hợp tác chiến lược vì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực. Hội nghị là cơ hội tốt để các bên trao đổi quan điểm một cách cởi mở, thẳng thắn về các thách thức an ninh khu vực; về thúc đẩy hợp tác cụ thể trong những lĩnh vực có lợi ích an ninh chung nhằm xây dựng năng lực, phát triển chuyên môn và tăng cường phối hợp trong những lĩnh vực có khả năng, góp phần xây dựng lòng tin, tăng cường minh bạch, duy trì hòa bình và ổn định khu vực.
Cùng với đó, Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng chủ động và liên tục tham gia Diễn đàn Đối thoại Shangri-La từ năm 2008 đến nay, được các nước đánh giá cao về tinh thần trách nhiệm và tính hiệu quả thông qua những sáng kiến đề xuất đối với vấn đề an ninh ở khu vực. Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực phát triển kinh tế năng động, nơi hội tụ lợi ích của nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới, trong đó có các nước lớn, nên việc xây dựng lòng tin và sự đồng thuận giữa các nước có cả thuận lợi và khó khăn, khó có thể đạt được mục tiêu trong một sớm, một chiều. Trên thực tế, đã có quốc gia trong khu vực nêu ra những đòi hỏi phi lý về chủ quyền, thậm chí còn có những hành động trái với luật pháp quốc tế trên Biển Đông trong suốt thời gian dài, gây quan ngại cho khu vực. Vì vậy, việc xây dựng và củng cố lòng tin đòi hỏi các nước, nhất là các nước lớn khi can dự vào khu vực này nói chung, Biển Đông nói riêng cần thể hiện đúng vai trò, trách nhiệm của mình cả trong lời nói và hành động; phải trên tinh thần xây dựng để hợp tác cùng phát triển, chứ không phải chỉ để trục lợi. Đó chính là điều quyết định đến tương lai quan hệ của các nước lớn với khu vực. Riêng hai cường quốc là Mỹ và Trung Quốc cần phải xây dựng lòng tin chiến lược đối với nhau và đối với các nước ASEAN, được thể hiện thông qua hành động cụ thể mang tính xây dựng, góp phần đem lại hòa bình, ổn định, phát triển thịnh vượng và đoàn kết ở khu vực. Đối với các nước ASEAN cũng cần củng cố lòng tin đối với nhau để hướng tới xây dựng một Cộng đồng đang dần hoàn chỉnh, đoàn kết, vững mạnh, hợp tác hiệu quả với tất cả các nước để chung tay vun đắp hòa bình và thịnh vượng ở khu vực; tuyệt đối không vì lợi ích riêng mà đứng về nước lớn này hay nước lớn khác.
Xây dựng lòng tin giữa quân đội các nước trong khu vực
Trong thời gian tới, quân đội của các nước thành viên ASEAN cần tích cực xây dựng lòng tin, tăng cường đoàn kết, hợp tác bằng nhiều phương thức, cơ chế linh hoạt.
Trước hết, cần mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ giữa lực lượng vũ trang các nước để tạo ràng buộc và tính liên kết lợi ích, nâng cao hiểu biết lẫn nhau, qua đó tăng cường tương tác và sự gắn kết giữa quân đội các nước. Một trong những hình thức hợp tác khả thi là quân đội các nước cần đẩy mạnh hợp tác trong nghiên cứu học thuật để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau về hệ thống chính trị, văn hóa chính trị và các yếu tố khác, làm cơ sở để mở rộng quan hệ và đưa các quan hệ đi vào chiều sâu, vững chắc.
Hai là, mở rộng các hình thức hợp tác, như: kết nghĩa, giao lưu giữa các ngành, cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang, nhất là các đơn vị dọc biên giới hai nước; thiết lập đường dây nóng và cách tiếp cận nhanh chóng giữa lãnh đạo quân đội các nước, các Tư lệnh Quân khu, Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh (nhất là các nước có chung đường biên giới trên bộ), Tư lệnh Hải quân các nước có vùng biển liền kề, nhằm kịp thời trao đổi thông tin và xử lý các tình huống khẩn cấp. Đồng thời, tổ chức các cuộc thăm viếng, mời nhau tham gia các cuộc diễn tập quân sự và giao lưu giữa lãnh đạo quân đội, an ninh các nước; thiết lập cơ chế trao đổi tin tức tình báo; định kỳ tổ chức đối thoại quốc phòng và chiến lược; tham gia các hội nghị, hội thảo… mở rộng các hình thức liên kết, hợp tác từ song phương sang đa phương.
Ba là, tăng cường công khai và minh bạch quá trình ra quyết sách và thực thi chính sách quốc phòng của mỗi nước; khắc phục việc đưa thông tin sai lệch về chính sách quốc phòng của một nước khác. Các nước cần định kỳ xuất bản Sách trắng Quốc phòng1; trong đó, công khai chính sách quốc phòng, ngân sách quốc phòng, vũ khí, trang bị, biên chế, tổ chức và nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, v.v.
Bốn là, xây dựng các khuôn khổ và cơ chế hợp tác mang tính ràng buộc lẫn nhau để thống nhất giữa các nước về giới hạn hoặc phạm vi chấp nhận được của hành vi hoặc cơ chế giải quyết bất đồng, giảm nghi ngờ lẫn nhau. Thông qua việc ký kết các văn kiện hợp tác, đối tác, các bên có thể thống nhất nội dung, phạm vi hợp tác cũng như cơ chế giải quyết các tranh chấp, tránh đe dọa sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực để giải quyết bất đồng trong quan hệ quốc tế.
Đại tá, PGS,TS. NGUYỄN HỒNG QUÂN Phó Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng ________ 1 - Việt Nam đã 3 lần công bố Sách trắng Quốc phòng (vào các năm 1999, 2004 và 2009).
Lòng tin chiến lược,đối ngoại quốc phòng
Một số giải pháp phòng, chống phương tiện bay không người lái của lực lượng pháo phòng không trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 23/10/2025
Nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ huy tác chiến không gian mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 20/10/2025
Mấy giải pháp xây dựng “quân nhân số” trong tình hình mới 16/10/2025
Bàn về nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay 12/10/2025
Mấy giải pháp thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở Học viện Hải quân 10/10/2025
Xu hướng phát triển công nghệ quân sự trên thế giới và vấn đề đặt ra đối với xây dựng Quân đội hiện đại hiện nay 22/09/2025
Một số giải pháp phát huy vai trò của Hải quân nhân dân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân “vươn khơi, bám biển” trong tình hình mới 25/08/2025
Chuyển hóa thế trận pháo binh - tên lửa phòng thủ chiến lược sang phản công chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 20/08/2025
Nâng cao năng lực ngoại ngữ cho cán bộ, nhân viên Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay 04/08/2025
Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị của lực lượng tác chiến không gian mạng hiện nay 29/07/2025
Bàn về nâng cao năng lực thực thi pháp luật của Cảnh sát biển Việt Nam hiện nay
Mấy giải pháp xây dựng “quân nhân số” trong tình hình mới
Mấy giải pháp thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở Học viện Hải quân
Nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ huy tác chiến không gian mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Một số giải pháp phòng, chống phương tiện bay không người lái của lực lượng pháo phòng không trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc