Nghiên cứu - Tìm hiểu Lịch sử Quân sự Việt Nam

QPTD -Thứ Năm, 23/10/2025, 08:42 (GMT+7)
Những quyết sách xây dựng quân đội, bảo vệ giang sơn, bờ cõi thời Lê Sơ

Nhờ những quyết sách sáng suốt, Quân đội Đại Việt thời Lê Sơ ngày càng thiện chiến, hùng mạnh, giáng trả kịp thời những hành động xâm lấn bờ cõi của ngoại bang và ngăn ngừa, diệt trừ mầm mống phản loạn để chấn hưng đất nước.

Sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, giữa bộn bề khó khăn của một dân tộc mới hồi sinh sau binh đao, cùng với tập trung khôi phục sản xuất, ổn định xã hội, đưa nước Đại Việt phát triển toàn diện, vua Lê Thái Tổ đã thực hiện nhiều quyết sách quan trọng, phù hợp trong xây dựng quân đội nhằm gia tăng sức mạnh bảo vệ đất nước. Kế tục những quyết sách đó, các triều vua thời Lê Sơ đã vận dụng sáng tạo, hiệu quả, từng bước bổ sung, hoàn thiện, tập trung xây dựng quân đội thiện chiến, hùng mạnh, kịp thời đáp trả mạnh mẽ các hành động xâm lấn biên thùy của ngoại bang, bảo vệ vững chắc giang sơn, bờ cõi; đồng thời, chủ động ngăn ngừa, diệt trừ mọi mầm mống phản loạn, giữ vững nền “thái bình, thịnh trị”.

Tượng Anh hùng dân tộc Lê Lợi tại tỉnh Thanh Hóa.

Một là, hoàn thiện chế độ binh dịch. Nhằm giữ vững kỷ cương, phép nước, làm cho trăm quan, muôn dân không dám trái lệnh, nâng cao khả năng huy động quân sĩ, xử lý hiệu quả các tình huống để phòng vệ đất nước, các vua triều Lê Sơ đã từng bước hoàn thiện chế độ binh dịch với nhiều điểm tiến bộ, phù hợp.

Nổi bật là, dưới triều vua Lê Thánh Tông, chế độ binh dịch được quy định rất rõ ràng, đảm bảo sự công bằng xã hội, xác định được nghĩa vụ binh dịch của mỗi người dân đối với đất nước. Theo đó, cứ 03 năm các địa phương làm lại hộ tịch một lần, gọi là tiểu điển, 06 năm làm đại điển; đồng thời, triều đình sai quan đi các xứ, dùng nội thần và văn võ mỗi hạng hai viên, dựng lập tuyển trường để duyệt dân binh, chia làm các bậc khác nhau (tráng hạng, quân hạng, dân hạng, lão hạng, cổ hạng, cùng hạng). Nhà nào có 03 đinh (nam giới) thì 01 người bổ vào hạng lính tráng, 01 người bổ hạng quân và một người bổ hạng dân; có 04 đinh thì 02 người bổ hạng dân. Nhà nào có 05, 06 đinh trở lên thì 02 người bổ hạng lính tráng, 01 người bổ hạng quân để ứng vụ, v.v. “Trưởng thành đến 18 tuổi thì vào sổ. Trước hết tuyển những người cường tráng làm binh lính, rồi đến dân tráng sung vào hạng quân, ở nhà làm ruộng, khi nào có thải người già yếu, thì chiếu theo thứ tự lấy bổ sung vào. Cứ mở sổ lấy binh, không phải đòi bắt mà có đủ ngay”1. Như vậy, thời Lê Sơ đã có những quy định chặt chẽ, thống nhất trong làm hộ tịch, phân chia, phân loại trai tráng rất rõ ràng, rành mạch. Nhờ xây dựng chính sách tất cả nam giới đến tuổi trưởng thành đều được theo dõi, kiểm tra chặt chẽ, thường xuyên, nên triều đình nắm chắc thực lực binh lính, bảo đảm vừa có quân thường trực tinh nhuệ, vừa có sẵn lực lượng dự bị đông đảo, sẵn sàng bổ sung quân số khi đất nước lâm nguy. Thực tiễn, năm Tân Mão (1471), chỉ trong thời gian ngắn, vua Lê Thánh Tông đã huy động được 26 vạn quân, kịp thời giáng cho ngoại bang liều lĩnh xâm lấn biên cương phía Nam những đòn trừng trị đích đáng.

Sự ưu việt của chế độ binh dịch còn thể hiện ở chỗ không có ngoại lệ đối với ai, kể cả con các quan lại, đảm bảo sự công bằng, “thượng tôn phép nước”, mọi người dân đều có nghĩa vụ và trách nhiệm như nhau trong tham gia quân đội, bảo vệ giang sơn, bờ cõi. Chế độ binh dịch quy định rõ: con của các quan văn võ nhất phẩm, nhị phẩm, con trưởng các quan tam phẩm cùng các cháu, các tước công hầu bá mà không biết chữ thì sung làm tuấn sĩ vệ Cẩm y; các con của quan tam phẩm và con của quan văn, võ theo hầu tứ, ngũ, lục, thất, bát phẩm mà không có học thì sung làm quân ở vệ Vũ Lâm; các cháu nội của quan thất phẩm trở xuống thì kén sung quân ngũ, v.v.

Thế mới hay, phép tuyển binh thời Lê Sơ rất rõ ràng, chu đáo. Cứ sau 03 năm soát lại một lần - “kế tu” (kế tiếp và tu sửa), tưởng như phiền phức nhưng quy chế thật nhất quán, người dân ai cũng yên lòng. Chế độ binh dịch này cho phép tổ chức ra những đơn vị quân đội có tinh thần chiến đấu cao; thiện chiến, tinh nhuệ; từ tướng đến binh ra trận đều vì quyền lợi của đất nước, của gia đình và bản thân họ, tạo nên sức mạnh vô địch, đánh thắng mọi kẻ thù.

Hai là, xây dựng quân đội tập trung, thống nhất. Sau khi giành được độc lập, Đại Việt rất cần nguồn nhân lực để phục hưng đất nước, nhưng với tinh thần cảnh giác, vua Lê Thái Tổ vẫn giữ lại 10 vạn quân tinh nhuệ (trong tổng số 35 vạn quân), quản lý tập trung, thống nhất để “đề phòng việc nước”. Phát huy kinh nghiệm quý đó, vua Lê Thánh Tông đã tiến hành cuộc cải cách toàn diện quân đội với mục đích làm cho quân đội gọn nhẹ nhưng thiện chiến, có quân thường trực mạnh và có lực lượng dự bị đông đảo để huy động khi cần thiết.

Về tổ chức, biên chế: Vua chia quân đội thành hai bộ phận: quân triều đình và quân các địa phương. Quân triều đình gồm có quân Cấm binh (còn gọi là Cấm vệ quân) và quân Ngũ phủ. Quân Cấm binh là lực lượng bảo vệ kinh thành và hoàng cung, được chia làm các vệ, sở (mỗi vệ có 05 sở, mỗi sở chia làm 20 đội, mỗi đội có 20 người). Quân Ngũ phủ thường trực đóng giữ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước gồm: Trung quân phủ, Đông quân phủ, Nam quân phủ, Tây quân phủ và Bắc quân phủ (mỗi phủ có 06 vệ, mỗi vệ có 05 hoặc 06 sở, mỗi sở chia thành 05 đội, mỗi đội gồm 20 người). Bên cạnh quân triều đình, nhà vua còn tổ chức ra quân các đạo, còn gọi quân đô ty (quân địa phương). Tại 13 xứ trong cả nước, nhà vua cho tổ chức ở mỗi xứ một đô ty, mỗi đô ty có nhiệm vụ phòng giữ, đảm bảo trật tự an ninh cho một xứ. Như vậy, thời Lê Sơ, đất nước không có lực lượng nào khác ngoài lực lượng quân đội do triều đình trực tiếp quản lý. Việc tổ chức quân đội thành 03 lực lượng, 02 bộ phận (quân triều đình và quân địa phương), cho phép nhà vua luôn có lực lượng hùng mạnh trong tay để kịp thời ứng phó với mọi tình huống; đặc biệt, trên hướng trấn thủ trọng yếu có đủ sức mạnh để giữ vững địa phương, sẵn sàng phối hợp với quân chủ lực của triều đình, đập tan mọi mưu đồ xâm lấn biên thùy của ngoại bang.

Sức mạnh tập trung, thống nhất của quân đội thời Lê Sơ còn thể hiện: vua là người trực tiếp nắm giữ quyền điều hành, điều động lực lượng để tiến hành các cuộc dẹp loạn, đánh đuổi ngoại xâm. Các Đô đốc phủ thống suất chỉ quản lý về sổ sách, quân số, huấn luyện, không có quyền điều động binh lính. Để nâng cao hiệu quả quản lý, chỉ huy quân đội, nhà vua tổ chức ra các cơ quan giúp việc; trong đó, Bộ Binh là bộ hàng đầu gồm hai cơ quan chức năng: Vũ khố thanh lại ty và Quân vụ thanh lại ty. Vũ khố thanh lại ty là cơ quan chuyên trách về vũ khí, quân dụng và lo việc hộ giá, nghi trượng, tế lễ, tập trung thực hiện công tác bảo đảm các mặt cho triều đình và quân đội. Quân vụ thanh lại ty là cơ quan trông coi việc tuyển bổ và khảo xét quân lính, hoạch định các cuộc hành quân; thị sát, lập bản đồ núi, sông, đường sá,… trình tấu với vua chỉ định những nơi lập đồn trấn giữ các vị trí trọng yếu trên toàn quốc.

Nhờ cách phân công, phân nhiệm, phân địa bàn phụ trách một cách rạch ròi, khoa học, mặc dù có thời điểm quân số lên đến hàng chục vạn người, nhưng nhà vua luôn kiểm soát, nắm chắc tình hình mọi mặt, thực hiện chỉ huy thông suốt từ trên xuống dưới. Trong kinh, ngoài đạo, khi có lệnh là răm rắp chấp hành, mấy chục vạn người hành động như một người, sức mạnh nhân lên gấp bội.

Ba là, tích cực, chủ động phòng giữ biên cương. Trước những âm mưu lấn chiếm non sông, bờ cõi của ngoại bang và những mầm mống phản loạn trong nước, để bảo vệ giang sơn, bờ cõi, ổn định tình hình, các vua thời Lê Sơ luôn chủ động phòng giữ, bảo vệ lãnh thổ các vùng biên cương - “phên giậu” của đất nước. Với khả năng nhìn xa, trông rộng về cương giới đất nước, từ rất sớm, ngay khi lên ngôi, trong một lần đi dẹp loạn vùng thượng Đà Giang, vua Lê Thái Tổ đã cho người khắc vào đá núi câu thơ: Biên phòng hảo vị trù phương lược/Xã tắc ưng tu kế cửu an. Nêu cao tinh thần cảnh giác, đến đời Hồng Đức, vua Lê Thánh Tông ra sắc dụ quan trấn thủ và phó tổng binh các vệ ở miền biên viễn: “Các ngươi chức vụ đứng đầu một phương khống chế cả cõi biên thùy, phải phòng bị điều bất trắc, để ngăn ngừa giặc ngoại xâm”2. Điều đó cho thấy, các triều vua dưới thời Lê Sơ đều chủ động, nhất quán trong việc đặt biên phòng vào chiến lược trước mắt và lâu dài nhằm gìn giữ vững chắc, bền lâu bờ cõi núi sông, biển, đảo của Tổ quốc.

Thực hiện quyết sách về phòng bị biên ải, trước mắt, triều đình điều động một bộ phận tinh nhuệ của quân đội, phối hợp với quân địa phương trấn thủ các miền biên viễn, kịp thời ngăn chặn các cuộc xâm lấn biên giới của nhà Minh ở phía Bắc; mặt khác, tăng cường, củng cố chính quyền các trấn biên giới phía Tây và Nam. Hệ thống các đồn ải, nhất là các cửa ải quan trọng án ngữ những con đường huyết mạch được sửa sang, nhằm gia tăng khả năng phòng giữ. Cùng với đó, việc giữ gìn cửa ải được triều đình quy định chặt chẽ hơn: “Những quan giữ quan ải không khám xét cẩn thận, để cho kẻ gian đưa lọt tin tức ra ngoài hay có kẻ gian lọt vào trong hạt mình dò la tình hình, thì xử tội đồ, tội lưu hay tội chết”3. Nhờ vậy, trong một thời gian dài, mặc dù quân xâm lược phương Bắc liên tục dòm ngó, nhưng biên cương của Đại Việt luôn được giữ vững, quốc gia ngày càng hưng thịnh, khiến “người nước ngoài vị nể, man di bốn cõi đều phục”4. Về lâu dài, tiến hành lập bản đồ các trấn biên giới và trên cả nước. Nhà vua ra lệnh cho tất cả các quan Thừa tuyên (gồm cả các đạo biên giới) đi nghiên cứu thế núi, hình sông, biển, đảo, những nơi hiểm trở và sự tích đời xưa, đời nay trong địa hạt mình cai quản, vẽ thành bản đồ ghi chú rõ ràng nộp cho Bộ Hộ để sáng tác bản đồ địa dư. Nhờ đó, “Hồng Đức bản đồ” - tập bản đồ hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử nước ta ra đời đã đánh dấu một bước phát triển cao của tư duy bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ biên giới đất nước “từ sớm, từ xa”. Cùng với tác phẩm “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi trước đó, là sự nhận diện phong phú về núi, sông, biển, đảo, ghi chép tỉ mỉ về tên đất, tên làng, sản phẩm, thổ nhưỡng, thủy văn. Đây là những tác phẩm địa lý - lịch sử đầu tiên của dân tộc ta, khẳng định chủ quyền, cương vực, cương giới, tài nguyên đất nước, được lưu truyền đến hôm nay và mai sau.

Những quyết sách sáng suốt trong xây dựng quân đội, bảo vệ giang sơn, bờ cõi thời Lê Sơ đã giúp Đại Việt giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong thời gian dài, tạo môi trường ổn định để đất nước phát triển ngày càng hưng thịnh. Những bài học đó mang giá trị lịch sử sâu sắc, cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng, phát triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

HÀ THÀNH - VŨ TRANG
____________________
        

1 - Phan Huy Chú – Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Khoa học xã hội, H. 1992, Tập III, tr.25.

2 - Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Nxb Khoa học xã hội, H. 1998, tr. 427.

3 - Viện Sử học Việt Nam – Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý, H. 1991, tr. 111.

4 - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam – Lịch sử tư tưởng Quân sự Việt Nam, Tập II, Nxb CTQG, H. 2014, tr. 96.

Ý kiến bạn đọc (0)

Quân tình nguyện Việt Nam - nòng cốt của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào
Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập Quân tình nguyện tại Lào, đánh dấu sự phát triển mới của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào; đồng thời, khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế.