Thứ Tư, 29/10/2025, 17:07 (GMT+7)
Nghiên cứu - Tìm hiểu Lịch sử Quân sự Việt Nam
Cách đây 75 năm, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta mở Chiến dịch Biên Giới - chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam và giành thắng lợi giòn giã. Thắng lợi của Chiến dịch không chỉ khẳng định sự lớn mạnh của Quân đội ta mà còn đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của nghệ thuật chiến dịch tiến công trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Sau thất bại nặng nề trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp bị phá sản hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế và tiếp tục chiến tranh, chúng ra sức củng cố hành lang Đông - Tây, mở rộng phạm vi chiếm đóng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ; củng cố tuyến phòng thủ Đông Bắc hòng “khóa chặt biên giới, bóp nghẹt lực lượng kháng chiến” của ta. Thực hiện mưu đồ trên, địch tập trung lớn lực lượng, vũ khí, phương tiện chiến đấu1, xây dựng có trọng điểm các cứ điểm mạnh theo Đường số 4, tại: thị xã Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, thị xã Lạng Sơn. Tuy nhiên, do phải dàn trải lực lượng trên diện rộng và dài, nên thế trận phòng ngự của địch thiếu liên hoàn, bộc lộ nhiều sơ hở; mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng ngày càng trở nên gay gắt.
Đánh giá đúng mạnh, yếu của địch, Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên Giới, tiến công vào tuyến phòng ngự của địch trên Đường số 4, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc và khai thông biên giới Việt - Trung để nhận sự giúp đỡ từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Đại đoàn 308, Trung đoàn 209, Trung đoàn 174; 02 tiểu đoàn chủ lực của Liên khu Việt Bắc (Tiểu đoàn 426, 428), Tiểu đoàn 888 tỉnh Lạng Sơn; 04 đại đội sơn pháo, 05 đại đội công binh; bộ đội địa phương, dân quân, du kích tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Với quyết tâm chiến đấu cao và nghệ thuật quân sự độc đáo, sau gần 01 tháng liên tục tiến công, mở màn bằng thắng lợi của trận tiến công cứ điểm Đông Khê và sau đó liên tiếp giáng cho địch những thất bại đau đớn ở khu vực Cốc Xá và Điểm cao 477, xóa sổ hoàn toàn 02 binh đoàn tinh nhuệ của quân Pháp, ta đã đập tan hệ thống phòng thủ của địch trên Đường số 4. Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, tạo ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, buộc địch dần chuyển sang phòng ngự bị động, ta chuyển sang giai đoạn phản công và tiến công. Thắng lợi của Chiến dịch đã khẳng định bước nhảy vọt về nghệ thuật chiến dịch của Quân đội ta trên một số vấn đề sau:
Một là, xác định đúng khu vực tác chiến chủ yếu. Đây là bước chuyển biến quan trọng của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Các chiến dịch trước đó, ta còn lúng túng, bị động đối phó với mưu đồ và kế hoạch tác chiến của địch (Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947) hoặc có xác định khu vực tác chiến chủ yếu nhưng chưa “đúng và trúng”, chưa gắn kết được giữa tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, hiệu suất chiến đấu không cao (chiến dịch Cao - Bắc - Lạng, Sông Lô, Lê Hồng Phong 1,…). Trong Chiến dịch Biên Giới năm 1950, ta lựa chọn đoạn Đường số 4 từ thị xã Cao Bằng đến Thất Khê là khu vực tác chiến chủ yếu. Đây là sự lựa chọn hoàn toàn chính xác, thể hiện tư duy nhạy bén, sáng tạo, mưu lược của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Chiến dịch. Đoạn Đường số 4 từ thị xã Cao Bằng đến Thất Khê dài khoảng 70 km, là địa bàn hiểm yếu, có ý nghĩa chiến lược đối với cả ta và địch; chỉ có đập tan được tuyến phòng ngự này thì ta mới mở toang “cánh cửa” nối với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và phá vỡ thế bao vây căn cứ địa Việt Bắc của địch trên hướng Đông Bắc. Mặc dù trong từng cứ điểm địch bố trí lực lượng phòng ngự chặt chẽ nhưng trên cả tuyến phòng ngự thế trận của địch lại hết sức “lỏng lẻo”, thiếu liên hoàn vì phải dựa vào trục đường độc đạo với chính diện dài, chiều sâu hẹp. Các cứ điểm: Na Sầm, Thất Khê, Đông Khê, thị xã Cao Bằng nằm cách xa nhau, địa hình hiểm trở, cơ động khó khăn, nên khi bị ta bí mật, bất ngờ tập trung binh lực, hỏa lực tiến công và tổ chức chia cắt đường bộ, đường không, thì khả năng chi viện, hỗ trợ lẫn nhau rất hạn chế - đây là điểm yếu “chí tử” của địch. Mặt khác, địa bàn Chiến dịch lại gần với hậu phương ta nên rất thuận lợi trong chỉ đạo tác chiến2; đồng thời, có điều kiện huy động nhân lực, vật lực lớn cho Chiến dịch.
Nhờ lựa chọn đúng khu vực tác chiến chủ yếu, nên ta luôn giữ vững và phát huy quyền chủ động tiến công, đẩy địch lún sâu vào thế bị động, lúng túng đối phó; trận đánh trước tạo thế, tạo thời cơ cho các trận tiếp theo giành thắng lợi. Bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng, ta nhanh chóng đập tan cứ điểm Đông Khê và liên tiếp đánh bại 02 binh đoàn tinh nhuệ của địch ở khu vực Cốc Xá và Điểm cao 477, đạt mục đích Chiến dịch đề ra.
Hai là, tập trung ưu thế vượt trội về binh lực, hỏa lực, bảo đảm chắc thắng trận then chốt mở đầu chiến dịch. Nếu như trong các chiến dịch: Đông Bắc, Cao - Bắc - Lạng, Sông Lô, Sông Thao,… ta không tạo được ưu thế vượt trội về binh lực, hỏa lực nên không dứt điểm được các cứ điểm của địch, hoặc dứt điểm được nhưng thời gian kéo dài, thương vong lớn (cứ điểm An Châu, Bản Trại, Phố Lu, Nghĩa Đô), thì đến Chiến dịch Biên Giới năm 1950, trong trận then chốt mở đầu chiến dịch ở Đông Khê ta đã tập trung lực lượng ưu thế hơn hẳn địch. Trong trận này ta sử dụng 02 trung đoàn và 02 tiểu đoàn bộ binh (gấp 09 lần bộ binh địch); 13 khẩu sơn pháo và ĐKZ; mở nhiều mũi tiến công, liên tục đột phá vào cứ điểm Đông Khê từ hướng Bắc, Đông Bắc, Tây Nam. Mặc dù địch dựa vào công sự vững chắc và hỏa lực mạnh, kiên quyết chống trả, nhưng ta có đủ lực lượng để xử lý hiệu quả các tình huống, đánh bại mọi biện pháp tác chiến của chúng, giành thắng lợi. Quân và dân ta đã chiến đấu liên tục trong 52 giờ, lần lượt đập tan từng ổ đề kháng trong tung thâm trận địa phòng ngự, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, tạo đột biến chiến dịch, gây phản ứng dây chuyền, tạo thế, tạo thời cơ để giành thắng lợi các trận then chốt đánh địch ngoài công sự. Thắng lợi của trận then chốt mở đầu Chiến dịch thể hiện bước tiến rõ nét về nghệ thuật tổ chức chỉ huy, trực tiếp là nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng, làm cơ sở vận dụng trong những chiến dịch quy mô lớn hơn, giành thắng lợi chiến lược, kết thúc chiến tranh; đồng thời, để lại bài học kinh nghiệm cả lý luận và thực tiễn về sự phát triển nghệ thuật tác chiến chiến dịch của Quân đội ta.
Ba là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương pháp tác chiến “đánh điểm, diệt viện”, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chủ yếu, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Thực hiện mục đích của Chiến dịch là “tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch”, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã nghiên cứu, đánh giá, kết luận chính xác tình hình các mặt và lựa chọn phương pháp tác chiến “đánh điểm, diệt viện”, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự (các binh đoàn ứng cứu, giải tỏa và rút chạy) là chủ yếu. Theo đó, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã nghiên cứu, cân nhắc và chọn cứ điểm Đông Khê để “đánh điểm”. Ban đầu, ta dự kiến chọn thị xã Cao Bằng là mục tiêu đánh trận mở đầu Chiến dịch, tuy nhiên, đây lại là cụm cứ điểm khá vững chắc, với 15 vị trí đóng quân của 02 tiểu đoàn địch; quá trình tiến công ta sẽ gặp nhiều khó khăn, vì phải giải quyết nhiều vấn đề về kỹ thuật và chiến thuật, như: vượt sông, chiến đấu trong tung thâm có chính diện rộng, chiều sâu lớn, đánh quân nhảy dù,… trong khi kinh nghiệm chiến đấu của bộ đội ta lúc này chưa nhiều. Mặt khác, thị xã Cao Bằng là cụm cứ điểm đột xuất, nằm cuối Đường số 4, cách Đông Khê khoảng 45 km, khi bị tiêu diệt, khó tạo nên đột biến và phản ứng dây chuyền, thúc đẩy Chiến dịch phát triển. Trong khi đó, tại cứ điểm Đông Khê, địch chỉ bố trí 02 đại đội tăng cường, nếu đánh Đông Khê là ta đã tránh chỗ mạnh, đánh vào “mắt xích” yếu nhất - vị trí quan trọng trong phòng tuyến của địch, vừa bảo đảm yếu tố chắc thắng cho trận then chốt mở đầu Chiến dịch, vừa đạt mục đích “khêu ngòi”. Vì nếu Đông Khê bị tiêu diệt, tuyến phòng ngự chiến lược của địch sẽ bị cắt làm đôi, thị xã Cao Bằng bị cô lập hoàn toàn, địch buộc phải điều lực lượng, phương tiện từ Thất Khê lên ứng cứu, giải tỏa - tạo thuận lợi để ta vận động tiến công, tiêu diệt địch ngoài công sự. Việc lựa chọn Đông Khê để tiến hành trận mở đầu Chiến dịch là cơ sở quan trọng để ta thực hiện phương pháp tác chiến “đánh điểm, diệt viện” - bước trưởng thành về nghệ thuật tác chiến chiến dịch trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta. Nếu ta chọn cứ điểm quá mạnh (thị xã Cao Bằng), thì các đơn vị không đủ sức tiêu diệt; ngược lại, chọn mục tiêu quá nhỏ và không có giá trị “khêu ngòi” lại không thu hút được viện binh lớn của chúng để tập trung tiêu diệt ngoài công sự.
Có thể khẳng định, việc chọn cứ điểm Đông Khê đánh trận then chốt mở đầu đã tạo nên đột biến chiến dịch, gây phản ứng dây chuyền, buộc quân Pháp phải điều các binh đoàn chủ lực, tinh nhuệ từ Thất Khê lên ứng cứu, giải tỏa và nhanh chóng rút quân từ thị xã Cao Bằng về, tạo thời cơ thuận lợi để Đại đoàn 308, Trung đoàn 209, Trung đoàn 174 tập trung tiêu diệt trong khu vực Cốc Xá và Điểm cao 477. Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã nghiên cứu kỹ địa hình khu vực tác chiến chủ yếu, tạo lập thế trận vận động tiến công hiểm, sắc; tổ chức, sử dụng và bố trí lực lượng bộ binh, hỏa lực hợp lý; kiên trì chờ địch cơ động vào khu vực đã lựa chọn, tập trung bao vây, chia cắt, tiêu diệt gọn từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi liên tiếp trận then chốt thứ 2 và thứ 3. Thắng lợi vang dội của trận vận động tiến công ở Cốc Xá và Điểm cao 477 đã khẳng định bước nhảy vọt về nghệ thuật, phương pháp tác chiến chiến dịch của ta trong kháng chiến chống Pháp. Trước đó, từ năm 1948 đến đầu năm 1950, các đơn vị còn nặng tư tưởng “công đồn”, lấy tiêu diệt địch trong các cứ điểm là chủ yếu, chưa coi trọng tiêu diệt địch ngoài công sự, thậm chí không xác định đánh địch ứng cứu, tăng viện, rút chạy, thiếu sự gắn kết chặt chẽ giữa “đánh điểm” với “diệt viện”, nên bỏ lỡ nhiều cơ hội tiêu diệt địch, hiệu suất chiến đấu chưa cao.
Thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới năm 1950 đã mở ra giai đoạn mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những bước phát triển nhảy vọt về nghệ thuật tác chiến được thể hiện trong Chiến dịch cần được tiếp tục nghiên cứu, làm sâu sắc thêm để vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra).
Thượng tá, TS. TRỊNH TIẾN THÀNH, Học viện Lục quân _________________
1 - Tổng số binh lực vừa cơ động, vừa chiếm đóng lên đến 11 tiểu đoàn, 09 đại đội bộ binh; 04 đại đội cơ giới, 04 đại đội công binh, 27 khẩu pháo các loại, 08 máy bay.
2 - Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp thị sát, chỉ đạo và động viên cán bộ, chiến sĩ.
Chiến dịch Biên giới 1950,phát triển nhảy vọt,nghệ thuật chiến dịch,hiệp đồng binh chủng,quy mô lớn
Những quyết sách xây dựng quân đội, bảo vệ giang sơn, bờ cõi thời Lê Sơ 23/10/2025
Nghệ thuật tạo, lập và chuyển hóa thế trận trong Chiến dịch tiến công Lộc Ninh năm 1967 28/08/2025
Nghệ thuật đánh trận then chốt quyết định trong Chiến dịch Ba Gia năm 1965 24/07/2025
Nghệ thuật xây dựng thế trận hậu cần - kỹ thuật trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn Quân khu 4 19/06/2025
Nét đặc sắc về nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 30/05/2025
Nghệ thuật sử dụng lực lượng trong Chiến dịch Đường 14 - Phước Long 24/02/2025
Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút – nét đặc sắc của nghệ thuật tác chiến trên địa bàn sông nước 26/01/2025
Nghệ thuật tạo lập và chuyển hóa thế trận trong Chiến dịch tiến công Bình Giã, Đông Xuân 1964 - 1965 04/12/2024
Nét đặc sắc của nghệ thuật vận dụng cách đánh trong Chiến dịch tiến công Tây Sơn Tịnh năm 1966 21/11/2024
Quân tình nguyện Việt Nam - nòng cốt của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào 29/10/2024
Những quyết sách xây dựng quân đội, bảo vệ giang sơn, bờ cõi thời Lê Sơ