Nghiên cứu - Tìm hiểu Lịch sử Quân sự Việt Nam

QPTD -Thứ Năm, 19/06/2025, 05:54 (GMT+7)
Nghệ thuật xây dựng thế trận hậu cần - kỹ thuật trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn Quân khu 4

Cách đây hơn 60 năm, lực lượng vũ trang Quân khu 4 đã cùng quân và dân cả nước anh dũng chiến đấu, đập tan hành động leo thang chiến tranh đánh phá ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc địa bàn và tuyến giao thông huyết mạch, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Thắng lợi đó được tạo nên bởi nhiều yếu tố, trong đó có việc xây dựng thành công thế trận hậu cần - kỹ thuật, bảo đảm liên tục, kịp thời cho các hoạt động tác chiến, góp phần làm phong phú nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Mùa hè năm 1964, trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam; đồng thời, “leo thang” chiến tranh, sử dụng lực lượng lớn không quân, hải quân đánh phá ra miền Bắc, hòng làm suy yếu tiềm lực kinh tế, quốc phòng của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam.

Không quân Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc Việt Nam. Ảnh tư liệu

Từ năm 1965, chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ lan rộng trên chiến trường miền Bắc và ngày càng ác liệt; trong đó, địa bàn Quân khu 4 là trọng điểm đánh phá chủ yếu của chúng. Địch mở một loạt các chiến dịch: “Mũi lao lửa”, “Sấm rền”,... tập trung sức mạnh không quân, hải quân đánh phá ác liệt vào địa bàn Quân khu 4, nhất là các trọng điểm như: Truông Bồn (Nghệ An), Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), Long Đại (Quảng Bình),... hòng “thắt chặt, bóp nghẹt”, phá nát mảnh đất “cán xoong” này.

Trước âm mưu “leo thang” đánh phá miền Bắc của đế quốc Mỹ, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 bám sát sự chỉ đạo của trên, khẩn trương củng cố, phát triển lực lượng, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt; trong đó, chú trọng xây dựng tiềm lực, thế trận hậu cần - kỹ thuật vững chắc nhằm bảo đảm đầy đủ, kịp thời cho các đơn vị chiến đấu. Nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường cùng thế trận hậu cần - kỹ thuật vững chắc, chuyển hóa linh hoạt, quân và dân Quân khu 4 đã giáng cho đế quốc Mỹ những đòn thích đáng; đập tan mưu đồ phá hoại miền Bắc của chúng, bảo vệ vững chắc địa bàn, vùng trời, vùng biển, đảo, giữ vững huyết mạch giao thông, chi viện chiến lược cho tiền tuyến lớn miền Nam. Thắng lợi đó thể hiện sức mạnh của chiến tranh nhân dân, hậu cần toàn dân, sự phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam, trong đó, nghệ thuật xây dựng thế trận hậu cần - kỹ thuật là nét nổi bật, được thể hiện trên một số vấn đề sau.

Trước hết, bám sát phương án chống chiến tranh phá hoại, chủ động, tích cực chuẩn bị tiềm lực, lực lượng, thế trận hậu cần - kỹ thuật bảo đảm cho tác chiến. Quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng về nhiệm vụ cách mạng ở hai miền và nắm vững âm mưu, thủ đoạn của địch, ngay từ đầu năm 1961, Quân khu ủy xác định là quân khu đầu cầu, trọng điểm, ba mặt có thể bị địch công kích, nên việc chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng đối phó với các tình huống chiến tranh, kể cả tình huống lớn là yêu cầu cấp bách. Tháng 3/1961, Bộ Quốc phòng ra mệnh lệnh hậu phương đảm bảo kế hoạch phòng thủ Quân khu 4, xác định những chủ trương lớn đối với công tác hậu cần - kỹ thuật của Quân khu. Chấp hành chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Quân khu đã chủ động chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng bảo đảm cho lực lượng vũ trang chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, ưu tiên cho các đơn vị ở giới tuyến, hải đảo và bờ biển. Theo đó, Quân khu tiến hành thành lập Cục Hậu cần trên cơ sở nâng cấp Phòng Hậu cần; các ban được nâng lên thành phòng trực thuộc Cục; ban hậu cần của các sư đoàn, lữ đoàn, tỉnh đội được nâng lên thành phòng hậu cần và được bổ sung đủ quân số theo biên chế thời chiến. Đây là bước chuẩn bị quan trọng về lực lượng, cơ sở để nâng cao khả năng tham mưu, chỉ đạo, điều hành công tác hậu cần - kỹ thuật các cấp, đáp ứng yêu cầu chống chiến tranh phá hoại.

Cùng với đó, trong năm 1964, thực hiện Kế hoạch “Bảo đảm hậu phương”, Quân khu đã tổ chức quy hoạch, xây dựng căn cứ hậu cần - kỹ thuật Quân khu ở Nghĩa Đàn - Tân Kỳ - Quỳ Hợp (Nghệ An) để bảo đảm cho phòng thủ bờ biển; mở rộng hệ thống kho, trạm với trữ lượng lớn1, tiếp nhận nhiều vũ khí trang bị, đạn dược từ Bộ chuyển vào2. Đồng thời, xây dựng hệ thống kho, đường hầm dọc tuyến ven biển, các đảo từ Nghệ An đến Vĩnh Linh sẵn sàng bảo đảm cho phương án chống chiến tranh xâm lược từ hướng biển đổ bộ vào. Đến cuối năm 1964, Quân khu đã hoàn chỉnh xây dựng, bố trí hệ thống kho, trạm hậu cần - kỹ thuật liên hoàn trên ba tuyến phòng thủ: giới tuyến, biên giới và bờ biển, sẵn sàng bảo đảm cho tác chiến. Các đơn vị chủ lực, trung đoàn pháo phòng không, pháo mặt đất, lực lượng phòng không địa phương được trang bị đầy đủ vũ khí, trang bị, đạn dược, sẵn sàng bước vào chiến đấu. Với sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, nhất là tiềm lực, thế trận hậu cần - kỹ thuật vững chắc nên ngay trong ngày đầu tiên quân địch đánh phá miền Bắc (05/8/1964), lực lượng vũ trang Quân khu cùng với quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 08 máy bay, khiến quân địch hoang mang, bất ngờ trước sức mạnh của ta, đồng thời, củng cố niềm tin, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược cho quân, dân cả nước.

Hai là, kịp thời điều chỉnh lực lượng, thế trận, hình thành mạng lưới hậu cần, kỹ thuật liên hoàn giữa bờ - biển - đảo, duy trì khả năng bảo đảm vững chắc, kịp thời. Trước hành động leo thang đánh phá ngày càng gia tăng của đế quốc Mỹ, ngày 23/01/1965, Quân khu ủy ra nghị quyết yêu cầu lực lượng vũ trang Quân khu nâng cao sức chiến đấu, bảo vệ vùng trời, vùng biển, vùng biên giới, hải đảo một cách vững chắc, chuẩn bị đối phó thắng lợi trong trường hợp địch tiến công xâm lược quy mô lớn vào địa bàn. Trên cơ sở nghị quyết của Quân khu ủy, Quân khu chỉ đạo điều chỉnh lại thế trận hậu cần - kỹ thuật theo các phương án tác chiến, phù hợp với khả năng, điều kiện địa hình và thủ đoạn đánh phá của địch. Theo đó, Quân khu triển khai các cơ sở hậu cần - kỹ thuật trên 03 khu vực: khu vực phía Bắc ở Tây Nghệ An, khu vực phía Nam ở Tây Quảng Bình và khu vực phía Tây ở Tây Hà Tĩnh. Để chuyển hóa thế trận, Quân khu đã huy động lực lượng, chỉ trong 10 ngày, tổ chức di chuyển hàng trăm thương binh, hơn 8.000 tấn vật chất về khu vực mới an toàn. Cùng với điều chỉnh thế bố trí, lực lượng hậu cần - kỹ thuật được mở rộng, hình thành cơ quan chỉ huy và các phân đội hậu cần - kỹ thuật tương đối mạnh trên 03 khu vực, vừa bảo đảm cho đánh địch tiến công hỏa lực, vừa sẵn sàng bảo đảm cho lực lượng đánh địch trên biển. Mặt khác, để bảo đảm cho các lực lượng chiến đấu trên biển, Quân khu đã tổ chức lực lượng hậu cần - kỹ thuật cơ động. Trong đó, Viện Quân y 4 tổ chức đội phẫu thuật cơ động ra Lạch Trường (Thanh Hóa), xuống Vinh (Nghệ An) để bảo đảm và tổ chức các đội thuyền của nhân dân thu dung thương binh cho các đơn vị của Quân khu và lực lượng Hải quân đánh địch trên hướng biển.

Thực tế cho thấy, việc điều chỉnh thế bố trí các cơ sở hậu cần - kỹ thuật của Quân khu hình thành thế trận bảo đảm theo khu vực là hết sức linh hoạt, sáng tạo, giúp phát huy cao nhất khả năng bảo đảm của hậu cần - kỹ thuật các cấp, đáp ứng đầy đủ, kịp thời về mọi mặt cho hoạt động tác chiến đa dạng của các lực lượng, trên các môi trường, địa bàn.

Ba là, kết hợp chặt chẽ hậu cần - kỹ thuật các cấp với hậu cần nhân dân; vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương thức bảo đảm, lấy bảo đảm theo khu vực là chủ yếu. Trong khi khả năng của hậu cần - kỹ thuật Quân khu còn có hạn, các lực lượng còn phải tác chiến ở địa hình lắm núi, nhiều sông, dễ bị chia cắt, cô lập, thời tiết khắc nghiệt và hải quân, không quân địch đánh phá ác liệt không kể ngày hay đêm. Để khắc phục điều đó, Quân khu chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng trên địa bàn, nhất là sức mạnh của hậu cần - kỹ thuật tại chỗ, thực hiện phương thức bảo đảm theo khu vực là chủ yếu. Theo đó, cùng với tích cực củng cố thế trận, xây dựng hệ thống kho, trạm thuận tiện cho việc tiếp nhận của trên, Quân khu chỉ đạo lực lượng hậu cần - kỹ thuật các cấp vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp bảo đảm, phù hợp với khả năng và tình hình thực tiễn. Đặc biệt, quán triệt quan điểm chiến tranh nhân dân, hậu cần toàn dân của Đảng, hậu cần - kỹ thuật Quân khu đã thực hiện có hiệu quả việc kết hợp khai thác hậu cần tại chỗ trên địa bàn hình thành bảo đảm theo khu vực hoàn chỉnh. Thực tế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trên địa bàn Quân khu 4, hậu cần nhân dân trở thành chỗ dựa vững chắc cho hậu cần - kỹ thuật Quân đội tổ chức triển khai bảo đảm. Quân khu đã triển khai đồng bộ các thành phần, lực lượng hậu cần - kỹ thuật đứng chân trên từng khu vực; đồng thời, xây dựng căn cứ hậu phương ở Nam Quân khu để huy động nguồn hậu cần tại chỗ, “khoanh vùng cung cấp” quy định khu vực khai thác cho các đơn vị. Chỉ đạo tăng cường dự trữ, hạn chế cơ động vận chuyển, ưu tiên bảo đảm cho các đơn vị chiến đấu độc lập, địa bàn trọng điểm. Với việc kết hợp chặt chẽ hậu cần - kỹ thuật các cấp, vận dụng phương thức linh hoạt, sáng tạo đã bảo đảm cho lực lượng vũ trang Quân khu đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Thời gian đã lùi xa, nhưng bài học về xây dựng thế trận, bảo đảm hậu cần - kỹ thuật cho chống chiến tranh phá hoại của Quân khu 4 vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, cần được nghiên cứu, kế thừa, phát triển phù hợp với điều kiện mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cần quán triệt sâu sắc đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân của Đảng. Trên cơ sở đó, chủ động quy hoạch, xây dựng tiềm lực, thế trận hậu cần - kỹ thuật chiến tranh nhân dân đồng bộ với xây dựng thế trận phòng thủ quân khu, thế trận phòng thủ chiến lược; tập trung xây dựng căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần - kỹ thuật các cấp, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, hình thành thế trận hậu cần - kỹ thuật liên hoàn, vững chắc, lấy hậu cần - kỹ thuật quân khu, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố làm nòng cốt, hậu cần nhân dân rộng khắp là cơ sở, thực hiện kết hợp chặt chẽ tại chỗ với cơ động, sẵn sàng bảo đảm trong mọi tình huống. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình tình mới.

Thiếu tướng, TS. NGUYỄN QUANG DŨNG, Phó Giám đốc Học viện Hậu cần
____________________
        

1 - Xây dựng được: 04 kho xăng, dầu; 02 kho xe; 01 kho phụ tùng, khí tài; 06 kho quân khí và một số kho lương thực, thực phẩm, quân trang. Các kho ở phía Bắc có trữ lượng hơn 2.300 tấn, phía Nam hơn 2.500 tấn, phía Tây hơn 1.000 tấn.

2 - Chỉ trong tháng 3, 4/1964, Quân khu đã tiếp nhận hơn 800 khẩu súng 12,7 mm, hơn 100 khẩu pháo cao xạ 37 mm, khoảng 800 tấn đạn các loại, v.v.

Ý kiến bạn đọc (0)

Quân tình nguyện Việt Nam - nòng cốt của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào
Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập Quân tình nguyện tại Lào, đánh dấu sự phát triển mới của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào; đồng thời, khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế.