Nghiên cứu - Tìm hiểu Lịch sử Quân sự Việt Nam

QPTD -Thứ Sáu, 30/05/2025, 08:47 (GMT+7)
Nét đặc sắc về nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947

Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 đã đánh bại mưu đồ “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, bảo vệ vững chắc căn cứ địa cách mạng và cơ quan Trung ương ở Việt Bắc; đồng thời, tạo bước chuyển quan trọng về thế và lực đưa cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc bước sang giai đoạn mới. Thắng lợi vang dội của Chiến dịch đánh dấu sự hình thành và phát triển của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam, trong đó, nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng là nét đặc sắc.

Bước sang năm 1947, sau khi “giải pháp chính trị” thành lập chính phủ bù nhìn bế tắc, thực dân Pháp quyết định dùng “đòn quân sự” để giải quyết nhanh chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương. Thực hiện mưu đồ đó, địch tập trung lớn lực lượng, mở cuộc hành binh đầy tham vọng tiến công lên Việt Bắc hòng bắt gọn các cơ quan đầu não của ta, tìm diệt chủ lực, phá tan căn cứ địa kháng chiến, khóa chặt biên giới Việt - Trung để ngăn chặn sự chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam. Với cuộc tiến công quy mô lớn này, thực dân Pháp hy vọng sẽ giành được thắng lợi quyết định, đè bẹp phong trào kháng chiến của nhân dân ta, nhanh chóng kết thúc chiến tranh, áp đặt lại ách thống trị ở Việt Nam.

Bộ Chỉ huy Chiến dịch báo cáo Chủ tịch Hồ Chí Minh kế hoạch tác chiến. Ảnh tư liệu TTXVN

Trước sức mạnh và đòn tiến công bất ngờ của địch, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, sáng suốt lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm “phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp”1. Nhờ vận dụng sáng tạo, linh hoạt đường lối chiến tranh “toàn dân, toàn diện”, nghệ thuật “lấy yếu chống mạnh, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều” cùng tinh thần “quyết chiến, quyết thắng”, quân và dân ta đã lần lượt bẻ gãy từng “gọng kìm” của địch, từng bước đảo ngược thế cờ, nhanh chóng giành lại quyền chủ động chiến lược. Chiến dịch phản công Việt Bắc giành thắng lợi khiến cho cuộc tiến công quy mô lớn của đội quân xâm lược nhà nghề phải hứng chịu tổn thất nặng nề, qua đó củng cố vững chắc niềm tin cho quân và dân ta vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Tuy là chiến dịch đầu tiên của Quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhưng đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cả về lý luận và thực tiễn của nghệ thuật chiến dịch, nhất là nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng.

Một là, tập trung lực lượng trên hướng, khu vực phản công chủ yếu, bẻ gãy từng “gọng kìm”, phá thế tiến công hợp điểm của địch. Trước sức mạnh của quân Pháp, để nhanh chóng thoát khỏi tình thế bị động ban đầu, từng bước giành quyền chủ động, đẩy địch vào thế bị động, ta chủ trương tập trung lực lượng nhằm ngăn chặn, kìm giữ tốc độ, tiến tới phá vỡ thế trận tiến công của địch; đồng thời, tạo nên những “đòn phản công sắc lẹm”, giành thắng lợi quyết định. Theo đó, ta đã huy động tối đa lực lượng vũ trang hiện có trên địa bàn và nhân dân địa phương tham gia Chiến dịch2, tập trung trên các hướng tiến công chủ yếu của địch: Sông Lô - Đường số 02, Đường số 03 và Đường số 04. Cùng với đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng để đánh địch. Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn chiến trường; thể hiện tư duy chiến lược, khả năng nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình mọi mặt của Bộ Tổng Chỉ huy. Bởi, quân địch mạnh hơn ta về binh lực, hỏa lực cũng như khả năng cơ động và sẽ càng mạnh hơn nếu hai gọng kìm khép lại một điểm như kế hoạch của chúng; trong khi đó, tác chiến trên địa bàn rộng, ta không thể dàn đều lực lượng để đánh địch trên các hướng. Vì thế, chỉ có tập trung lực lượng đủ mạnh, trên từng hướng, khu vực mục tiêu chủ yếu, quan trọng, kết hợp với thế trận chiến tranh nhân dân và dựa vào địa hình hiểm trở của núi rừng, ta mới có thể ngăn chặn, bẻ gãy từng gọng kìm, phá thế tiến công hợp điểm của địch.

Thực tiễn Chiến dịch cho thấy, các đơn vị chủ lực của Bộ và các khu đã sớm có mặt trên các hướng, khu vực phản công chủ yếu, chủ động lựa chọn địa hình có lợi, phối hợp với lực lượng du kích thực hiện đánh cài xen, quần lộn, cắt giao thông, góp phần tạo lập thế trận phản công hiểm sắc. Bên cạnh đó, các đơn vị chủ lực còn chủ động tập kích, phục kích3 vào đội hình tiến quân của địch, làm cho chúng bất ngờ, hoảng loạn, lực lượng, phương tiện chiến đấu bị tiêu hao, tinh thần và sức chiến đấu giảm sút. Các binh đoàn tinh nhuệ của thực dân Pháp càng đi sâu vào căn cứ Việt Bắc càng rơi vào thế trận “thiên la, địa võng” của chiến tranh nhân dân, liên tiếp bị các tiểu đoàn chủ lực của ta giáng những đòn chí mạng. Trước những thất bại nặng nề, không thể cứu vãn, quân địch buộc phải rút lui nhanh chóng, cuộc hành binh đầy tham vọng của thực dân Pháp thất bại hoàn toàn.

Hai là, kịp thời điều chỉnh lực lượng, chuyển hóa thế trận linh hoạt, đánh bại các biện pháp tác chiến của địch. Khi Chiến dịch mới diễn ra, do chưa dự đoán chính xác ý đồ của địch, nên trên một số hướng ta có phần bất ngờ và bị động đối phó, dẫn đến bị tổn thất về lực lượng và phương tiện. Sau khi nghiên cứu, đánh giá tình hình, nhận định sát đúng toàn bộ kế hoạch tiến công Việt Bắc của địch, Bộ Tổng Chỉ huy đã khẩn trương điều chỉnh lại lực lượng, từng bước tạo lập thế trận mới theo hướng có lợi cho ta, đồng thời xác định các biện pháp tác chiến, nhằm đánh bại các đợt tiến công của địch. Theo đó, để nâng cao hiệu quả chiến đấu, ta nhanh chóng tổ chức chiến trường thành 03 mặt trận và phân công các đồng chí trong Bộ Tổng Chỉ huy trực tiếp chỉ đạo từng hướng phản công, gồm: Mặt trận Đường số 03 (gồm toàn bộ khu vực trung tâm căn cứ địa) do đồng chí Hoàng Văn Thái chỉ huy; Mặt trận Đường số 04 do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy; Mặt trận sông Lô - Đường số 02 do đồng chí Trần Tử Bình và Tạ Xuân Thu chỉ huy. Đồng thời, kịp thời điều chỉnh thế bố trí lực lượng chủ lực, phát huy sức mạnh 03 thứ quân và chuyển hóa thế trận linh hoạt trong chiến đấu. Chính vì vậy, trên mặt trận Đường số 03, khi địch nhảy dù xuống Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Đồn, ta nhanh chóng điều chuyển Tiểu đoàn 160 của Bộ, Tiểu đoàn 72 của Khu 1 lên vùng Chợ Mới; Trung đoàn 72 được giao nhiệm vụ hoạt động từ Cao Bằng đến Bắc Kạn; chỉ đạo các lực lượng ở phía Nam (khu vực Thái Nguyên, Tuyên Quang) cơ động về phía Bắc để ngăn chặn địch. Trên mặt trận Đường số 02, Bộ Tổng Chỉ huy sử dụng trung đoàn chủ lực Khu 10 và 01 tiểu đoàn của Bộ, đánh địch trên sông Lô đoạn từ Việt Trì đến Tuyên Quang; Trung đoàn 147 và 02 tiểu đoàn chủ lực của Bộ bảo vệ phía Nam đường liên tỉnh Tuyên Quang - Thái Nguyên. Ở Mặt trận Đường số 04, ta điều chỉnh thế bố trí của Trung đoàn 174 để đánh địch từ Cao Bằng đến Thất Khê; sử dụng Trung đoàn 11 cơ động diệt địch trên Đường số 04, đoạn từ Lạng Sơn đến Đông Khê và trên Đường số 01 đoạn từ Lạng Sơn đến Đồng Mỏ.

Nhờ kịp thời điều chỉnh lực lượng, chuyển hóa thế trận linh hoạt nên ta đã ngăn chặn, kìm giữ “bước tiến thần tốc” của địch, dần lấy lại thế chủ động, đẩy địch vào thế bị động, khiến cho mâu thuẫn giữa tập trung lực lượng để tiến công tiếp và phân tán để giữ chắc những khu vực đã chiếm của chúng càng trở nên gay gắt. Với thế trận phản công hiểm sắc được chuyển hóa linh hoạt, các đơn vị đã hạn chế được điểm mạnh, khoét sâu điểm yếu, lần lượt vô hiệu hóa từng “gọng kìm” của địch, nhất là khi chúng phải cơ động trên các địa hình hiểm trở, đội hình bị kéo dài và chia cắt, khả năng chi viện, ứng cứu bị hạn chế.

Sơn pháo được ta sử dụng để bắn chìm tàu Pháp trên sông Lô trong Chiến dịch.

Ba là, thực hiện hiệu quả, sáng tạo phương châm tổ chức lực lượng bộ đội chủ lực “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Để đánh bại hoàn toàn mưu đồ “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch, khiến chúng ngày càng sa lầy, không phát huy được ưu thế về hỏa lực và khả năng cơ động, Bộ Tổng Chỉ huy quyết định phân tán lực lượng chủ lực thuộc Bộ và các khu (1, 10 và 12) từ 07 trung đoàn thành 18 tiểu đoàn, tác chiến trên 03 mặt trận và chuyển gần 30 đại đội về hoạt động độc lập ở các huyện trọng điểm. Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn trên chiến trường, khi các trung đoàn chủ lực của ta không phải đối mặt trực tiếp với các binh đoàn mạnh của địch, qua đó giữ được lực lượng để tập trung đánh những trận then chốt chiến dịch. Khi tiến công lên Việt Bắc, gặp địa hình hiểm trở nên quân địch chỉ có thể dựa vào các trục đường, dòng sông để cơ động, đội hình kéo dài, khả năng hiệp đồng chiến đấu bị hạn chế, vì thế việc sử dụng lực lượng cấp tiểu đoàn và đại đội; vận dụng sáng tạo hình thức chiến thuật phục kích, tập kích để đánh địch vào những thời điểm, vị trí mà chúng không thể ngờ tới là hoàn toàn phù hợp với cách đánh sở trường của ta lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, các “đại đội độc lập” còn là lực lượng nòng cốt để giúp đỡ các địa phương phát triển lực lượng du kích cũng như huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật, xây dựng các làng, xã thành các “pháo đài” chiến đấu; cùng với lực lượng cơ động (các tiểu đoàn chủ lực tập trung của Bộ và khu) đánh những trận vừa và lớn.

Với việc sử dụng hiệu quả các đại đội độc lập làm cho các binh đoàn của địch liên tục bị tiến công, giao thông bị chia cắt, đội hình bị xé nhỏ, vừa đi vừa sửa đường, nguồn tiếp tế vũ khí, đạn dược, lương thực vốn bị “nhỏ giọt” do xa hậu phương nay càng thêm khốn khó. Các “tiểu đoàn tập trung” dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân và địa hình có lợi, tập trung binh, hỏa lực đánh những trận then chốt, “đánh đau, đánh hiểm”, bao vây, chia cắt hiệu quả quân dù địch trên Đường số 03, tiêu diệt lớn lực lượng địch cơ động trên Đường số 04 và Sông Lô - Đường số 02, khiến chúng “mạnh hóa yếu, nhiều hóa ít”, mất dần thế chủ động, lúng túng, bị động đối phó; lực lượng, phương tiện bị tiêu hao, tiến quân một cách chậm chạp, dần rơi vào thế “tiến thoái lưỡng nan”, dẫn đến thất bại hoàn toàn. Có thể thấy, việc Bộ Tổng Chỉ huy thực hiện phương châm “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung” không phải là “bước lùi” về quy mô tổ chức, mà là chủ trương đúng đắn, phù hợp với trình độ tác chiến bộ đội ta trên Chiến trường Việt Bắc; không dàn quân phòng ngự, giữ đất chờ địch đến mới đánh mà chủ động phản công để diệt địch. Đó chính là nét sáng tạo, điểm phát triển mới của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 đã tạo lực, tạo thế có lợi để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đến thắng lợi cuối cùng. Những bài học kinh nghiệm về nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng trong Chiến dịch này vẫn còn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu, vận dụng và phát triển trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN HÙNG, Học viện Lục quân
______________________
        

1 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 (1945 - 1947), Nxb CTQG, H. 2000, tr. 315.

2 - Gồm: 07 trung đoàn bộ binh (18 tiểu đoàn chủ lực) và 30 đại đội độc lập.

3 - Ở ki lô mét số 07 (trên Đường số 02); Khoan Bộ (ngã ba Đoan Hùng), Khe Lau (trên sông Lô); Bông Lau (trên Đường số 4), v.v.

Ý kiến bạn đọc (0)

Quân tình nguyện Việt Nam - nòng cốt của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào
Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập Quân tình nguyện tại Lào, đánh dấu sự phát triển mới của liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào; đồng thời, khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế.