Thứ Sáu, 31/10/2025, 04:41 (GMT+7)
Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống Quán triệt, thực hiện nghị quyết
Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự (QP,QS) của Đảng, những năm qua, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu 2 đã thường xuyên phối hợp với cấp uỷ, chính quyền các địa phương trên địa bàn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) ngày càng vững mạnh; trong đó, đặc biệt chú trọng đẩy mạnh xây dựng tiềm lực quốc phòng (TLQP), nhằm mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch và sẵn sàng đánh thắng mọi hành động xâm lược của chúng. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề cập và lực lượng vũ trang (LLVT) Quân khu 2 cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện.
Trên cơ sở các chỉ thị, nghị định của Đảng và Chính phủ, Hội đồng Giáo dục quốc phòng-an ninh (QP-AN) Quân khu đã chủ động, tích cực triển khai nhiều giải pháp đẩy mạnh công tác giáo dục QP-AN cho các đối tượng, nâng cao ý thức quốc phòng cho nhân dân các dân tộc trên địa bàn. Từ năm 2001 đến nay, Quân khu đã tổ chức và chỉ đạo các tỉnh, thành phố bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho 330.865 cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị; trong đó có 2.870 cán bộ thuộc đối tượng 2; hơn 100.000 cán bộ, đảng viên thuộc đối tượng 3, 4 và hàng trăm ngàn học sinh, sinh viên. Giáo dục QP-AN cho toàn dân cũng được quan tâm thích đáng với nhiều hình thức, biện pháp phù hợp, góp phần nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và BVTQ trong tình hình mới.
Quán triệt quan điểm của Đảng và xuất phát từ đặc điểm vùng Tây Bắc, chủ yếu là địa hình miền núi, giao thông không thuận lợi, kinh tế chậm phát triển, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, nên các địa phương đã tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; lấy việc thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) làm nền tảng để xây dựng TLQP. Những năm gần đây, cơ cấu kinh tế của các địa phương có sự chuyển dịch tích cực, tỷ trọng công nghiệp-dịch vụ tăng mạnh; nhiều dự án công nghiệp lớn được đầu tư, như: Thuỷ điện Sơn La, Apatit ở Lào Cai… Sản xuất nông, lâm nghiệp phát triển tương đối toàn diện, đã hình thành một số địa bàn sản xuất hàng hoá tập trung, như: chè, mía đường, cây ăn quả, cây cao su… Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn còn 29,2% (mỗi năm giảm từ 3 đến 4%); dịch vụ bưu chính-viễn thông, vận tải, tài chính, ngân hàng phát triển nhanh...; tổng thu nhập của các tỉnh từng bước được nâng lên. Để những thành tựu kinh tế đó thực sự trở thành TLQP, Quân khu chú trọng chỉ đạo cơ quan quân sự các cấp tích cực tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương đẩy mạnh kết hợp giữa phát triển KT-XH với tăng cường, củng cố QP-AN. Sự kết hợp đó được các địa phương thực hiện ngay trong quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH của vùng Tây Bắc và từng KVPT địa phương. Hiện nay, sự kết hợp đó tập trung vào việc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng (hệ thống đường sá, cầu cống, sân bay, cửa khẩu…), trọng tâm là phát triển hệ thống giao thông, bưu chính-viễn thông trên địa bàn. Rút kinh nghiệm từ hạn chế ở một số địa phương trong việc kết hợp giữa phát triển KT-XH với QP-AN chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao, Quân khu đã chỉ đạo cơ quan quân sự các tỉnh, thành phố thực hiện tốt chức năng tham gia thẩm định các dự án KT-XH ở địa phương, không để ảnh hưởng đến thế trận KVPT; nhất là các dự án có yếu tố nước ngoài. Đối với các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ có nguồn nhân lực dồi dào, kinh tế tương đối phát triển, giao thông thuận lợi, Quân khu chỉ đạo cơ quan quân sự chú trọng tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện các giải pháp tăng cường TLQP, xây dựng, hoàn thiện kế hoạch huy động, sẵn sàng chuyển TLQP thành thực lực QP,QS. Đối với các tỉnh còn nhiều khó khăn về kinh tế, trình độ dân trí còn thấp, không đồng đều, như: Hà Giang, Điện Biên, Yên Bái… tập trung khắc phục khó khăn, đẩy mạnh phát triển KT-XH, tích cực “xóa đói, giảm nghèo”, cải thiện đời sống nhân dân, từng bước tăng cường TLQP.
Để đẩy mạnh xây dựng tiềm lực văn hoá-xã hội, các địa phương luôn quán triệt và thực hiện tốt quan điểm, định hướng của Đảng về “xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; trong đó, chú trọng bảo tồn và phát huy những truyền thống, bản sắc văn hoá riêng, đa dạng, phong phú, tốt đẹp của các dân tộc vùng Tây Bắc; hướng các hoạt động văn hoá, văn nghệ phục vụ công cuộc BVTQ. Trên địa bàn Tây Bắc có 34 dân tộc cùng sinh sống; mỗi dân tộc đều có nét văn hoá riêng biệt, độc đáo, góp phần tạo thành nền văn hoá Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Thực hiện quan điểm của Đảng, các địa phương luôn chú trọng bảo tồn, phát huy và phát triển những giá trị văn hoá, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước thông qua hệ thống di sản văn hoá; đồng thời, tích cực đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hoá độc hại, phản động, từng bước xoá bỏ những hủ tục lạc hậu không còn phù hợp. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” được triển khai rộng khắp, đạt hiệu quả thiết thực. Công tác giáo dục-đào tạo có bước phát triển cả về quy mô trường, lớp và loại hình đào tạo. Trong đó, các địa phương đặc biệt chú trọng thực hiện các chính sách khuyến khích, hỗ trợ, động viên con em đồng bào các dân tộc đến trường, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng sâu, vùng xa.
Các chính sách xã hội được Quân khu và các địa phương quan tâm thực hiện thông qua nhiều chương trình, cuộc vận động, phong trào thi đua, như: “Xóa đói, giảm nghèo”, “Đền ơn, đáp nghĩa”…; các chương trình, dự án, như: 134, 135, 327… đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn, hướng tới mục tiêu xây dựng địa phương: giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đáng chú ý là, LLVT Quân khu đã quán triệt và thực hiện đạt hiệu quả cao các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận, nhất là Nghị quyết số 152-NQ/ĐUQSTW của Đảng uỷ Quân sự Trung ương (nay là Quân uỷ Trung ương) về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác dân vận của LLVT trong tình hình mới”; đã thường xuyên phối hợp với địa phương khảo sát, phân loại và lập kế hoạch tổ chức các tổ, đội công tác 123 đến từng địa bàn để tham mưu, giúp cấp uỷ, chính quyền cơ sở nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây dựng cơ sở xã, phường vững mạnh. Từ năm 2003 đến năm 2008, Quân khu đã thành lập 1.098 tổ, đội công tác, xuống 1.188 lượt thôn, bản, xã. Hiện nay, Quân khu vẫn duy trì 40 đội công tác cùng với Bộ đội Biên phòng tích cực tham gia giúp đỡ chính quyền và nhân dân ở những địa bàn còn nhiều khó khăn.
Trong điều kiện nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực khoa học-công nghệ còn nhiều khó khăn, Quân khu và các địa phương trên địa bàn đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, nhân viên chuyên môn kỹ thuật; khuyến khích cán bộ, chiến sĩ tham gia hoạt động khoa học-công nghệ, nhất là việc đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) của LLVT Quân khu. Trong điều kiện hiện tại, Quân khu tập trung nâng cao hiệu quả quản lý, ứng dụng các công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật và nghệ thuật quân sự phục vụ nhiệm vụ QP,QS trên địa bàn.
Để xây dựng tiềm lực quân sự vững mạnh, Quân khu coi trọng cả lực lượng và thế trận quốc phòng; trong đó, đặc biệt chú trọng xây dựng LLVT vững mạnh làm nòng cốt trong công tác QP,QS địa phương. Lực lượng thường trực của Quân khu được tổ chức, xây dựng theo tinh thần Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 33-NQ/ĐUQSTW, bảo đảm đủ, gọn, hợp lý, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ trong thời bình và sẵn sàng mở rộng lực lượng trong chiến tranh; trong đó, ưu tiên thích đáng cho các đơn vị làm nhiệm vụ SSCĐ. Đối với công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên, Quân khu tiếp tục chỉ đạo các đơn vị, địa phương thực hiện nghiêm túc các bước, từ tạo nguồn, đăng ký, quản lý đến tổ chức huấn luyện, động viên SSCĐ; trong đó, chú trọng tạo nguồn là cán bộ người dân tộc thiểu số. Hiện nay, quân số sắp xếp vào các đơn vị dự bị động viên đạt 95,7%; tỷ lệ đảng viên đạt 8,2%; tỷ lệ đúng và gần đúng chuyên nghiệp quân sự đạt 67,8%; kiểm tra động viên hằng năm đều bảo đảm yêu cầu đề ra.
Lực lượng dân quân tự vệ (DQTV) được tổ chức theo quy định của Luật DQTV, theo hướng “vững mạnh, rộng khắp”; đạt tỷ lệ 1,8% so với dân số. Cấp uỷ các địa phương thường xuyên tăng cường lãnh đạo đối với lực lượng DQTV theo tinh thần Chỉ thị số 16-CT/TW, ngày 05-10-2002 của Ban Bí thư Trung ương; tỷ lệ đảng viên trong DQTV đạt 22,5%. Hiện nay, Quân khu đã mở 5 khoá (35 lớp), đào tạo được 1.994 chỉ huy trưởng xã (phường, thị trấn), tạo điều kiện thuận lợi để kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quân sự cấp xã (phường, thị trấn), góp phần nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở.
Để xây dựng LLVT vững mạnh, cùng với việc chỉ đạo chặt chẽ công tác tổ chức lực lượng, Quân khu còn chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Công tác huấn luyện, SSCĐ của LLVT Quân khu được duy trì nghiêm túc theo chế độ quy định; chú trọng huấn luyện sát với địa bàn, nhiệm vụ và phương án tác chiến; coi trọng diễn tập KVPT với sự tham gia của các lực lượng trên địa bàn theo tinh thần Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị: Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự và ban, ngành, đoàn thể làm tham mưu, Chỉ huy trưởng chỉ huy thống nhất LLVT thuộc quyền. Trước yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, LLVT Quân khu còn tích cực tham gia phòng chống lụt bão, tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai; hoàn thành tốt nhiệm vụ rà phá, xử lý bom mìn, vật liệu nổ trên tuyến biên giới.
Trên cơ sở phương án, kế hoạch tổng thể đã xác định, Quân khu tập trung xây dựng thế trận QPTD vững mạnh; gắn xây dựng thế trận QPTD với thế trận an ninh nhân dân, đáp ứng yêu cầu đấu tranh vũ trang và phi vũ trang. Bộ đội chủ lực của Quân khu được tổ chức, bố trí phù hợp, cùng với KVPT của các địa phương hình thành thế trận liên hoàn, vững chắc, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu cơ động tác chiến trong chiến tranh BVTQ; đồng thời, sẵn sàng tham gia xử lý các tình huống trong thời bình theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Do mật độ dân số trên địa bàn phân bố không đều và hiện tượng di dân tự do còn diễn ra phức tạp, Quân khu phối hợp với các tỉnh xây dựng quy hoạch tổng thể, sắp xếp, bố trí dân cư gắn với tổ chức lực lượng trên khu vực biên giới theo hướng tập trung, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý, giữ gìn an ninh chính trị, phát triển KT-XH, củng cố thế trận quốc phòng của Quân khu cũng như thế trận trong từng KVPT địa phương. Trong quá trình xây dựng TLQP, cơ quan quân sự các cấp còn chú trọng hoàn thiện kế hoạch động viên lực lượng và phương tiện, sẵn sàng chuyển từ thế trận QPTD thành thế trận chiến tranh nhân dân trong thời chiến. Quân khu còn chỉ đạo chặt chẽ việc xây dựng hệ thống công trình quốc phòng trên địa bàn, như: hầm ngầm, hang động và công sự các loại trong các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, KVPT then chốt của các tỉnh, thành phố… Các khu kinh tế-quốc phòng được tổ chức chặt chẽ, triển khai tích cực, bước đầu khẳng định hiệu quả; hệ thống đường giao thông, nhất là đường tuần tra biên giới trên địa bàn đang từng bước hoàn thành, góp phần đẩy mạnh phát triển KT-XH, củng cố thế trận QP-AN ở vùng biên giới.
Quán triệt và thực hiện Quyết định số 107/2003/QĐ-TTg (nay là Nghị định số 77/2010/NĐ-CP) của Chính phủ, đến nay, các địa phương trong Quân khu đã xây dựng xong quy chế phối hợp giữa bộ đội và công an, góp phần gắn kết chặt chẽ thế trận QPTD với thế trận an ninh nhân dân. Trên tuyến biên giới, Bộ đội Biên phòng, bộ đội địa phương và DQTV phối hợp với công an địa phương thực hiện tốt công tác quản lý biên giới; đã phát hiện, ngăn chặn nhiều hoạt động vi phạm chủ quyền lãnh thổ, điều tra, bắt giữ nhiều đối tượng hoạt động trái pháp luật trên tuyến biên giới, như: xâm canh, xâm cư, buôn bán hàng cấm, vận chuyển ma túy, vũ khí, chất nổ,... Mặt khác, Quân khu luôn chú trọng thực hiện tốt công tác đối ngoại quân sự, xây dựng mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với các nước, các địa phương có chung đường biên giới, góp phần giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện phát triển KT-XH.
Xây dựng TLQP trên địa bàn Quân khu 2 có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ; tuy nhiên, đây là một quá trình lâu dài, phức tạp, tổng hợp nhiều lĩnh vực. Do đó, cấp uỷ, chính quyền các địa phương và LLVT Quân khu cần tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh xây dựng địa phương vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về QP-AN, tạo nền tảng để tăng cường TLQP, góp phần cùng cả nước bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
Thiếu tướng DƯƠNG ĐỨC HÒA
Uỷ viên BCHTƯ Đảng, Tư lệnh Quân khu
Học viện Kỹ thuật Quân sự đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số 23/06/2025
Quân khu 3 đột phá nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu 08/06/2025
Bộ đội Biên phòng Hà Giang đẩy mạnh thực hiện Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia 15/05/2025
Quân khu 3 tập trung xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc 12/05/2025
Động lực mới cho phát triển kinh tế 11/05/2025
Vùng 3 Hải quân quán triệt, thực hiện Chỉ thị số 35 của Bộ Chính trị 21/04/2025
Học viện Phòng không - Không quân xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW 10/04/2025
Xây dựng Đảng bộ Quân khu 5 vững mạnh về tổ chức 10/03/2025
Binh chủng Thông tin liên lạc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 1659 của Quân ủy Trung ương 06/03/2025
Quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII), Bộ đội Biên phòng tập trung xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh 27/02/2025