Thứ Sáu, 14/11/2025, 04:27 (GMT+7)
Bình luận - Phê phán Phòng, chống "DBHB"; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng
Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của Đảng và Nhân dân ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Đây là sự thật không thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận.
Luận điệu xuyên tạc và thủ đoạn chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội là đường lối, mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam; đó là tất yếu lịch sử mà dân tộc Việt Nam đã lựa chọn và ngày càng được hiện thực hóa sinh động trong đời sống xã hội ở nước ta. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đã đạt được, nhất là trong gần 40 năm đổi mới được bắt nguồn bởi sự lựa chọn đúng đắn và kiên định vững vàng mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và Nhân dân ta. Đó là sự thật, không thể xuyên tạc, phủ nhận. Thế nhưng, bất chấp thực tế đó, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước vẫn tìm mọi cách cấu kết với nhau, ra sức xuyên tạc, công kích, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Những năm gần đây, sự chống phá của chúng càng trở nên quyết liệt, với hai hướng chính. Hướng thứ nhất, các thế lực thù địch, phản động ra sức xuyên tạc việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, chúng hồ đồ cho rằng, đó là một “sai lầm của lịch sử”, là “lạc đường”, “đi ngược” với sự phát triển của nhân loại, bởi chủ nghĩa xã hội “không phải là chế độ ưu việt”, đã bị “cáo chung”, “thoái trào từ lâu”. Nếu đi theo chủ nghĩa xã hội, thì Việt Nam sẽ rơi vào “vết xe đổ của Liên Xô, Ðông Âu”. Hướng thứ hai, chúng công kích, xuyên tạc chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam, rằng: Việt Nam đã có chủ nghĩa xã hội đâu mà để kiên định; chủ nghĩa xã hội chỉ là “bánh vẽ”, “viển vông”, không có thật; Việt Nam phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là tư bản chủ nghĩa, vì thế nói đến kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chỉ là “tự trấn an” mình mà thôi, v.v.
Những luận điệu nêu trên không có gì mới, nhưng được lặp đi lặp lại, với cường độ, tần suất ngày càng gia tăng, khi thì trắng trợn, khi lại rất tinh vi, tỏ ra có lý luận cao siêu, với những cung bậc khác nhau, theo kiểu “nói mãi cũng phải thấm”. Được sự “hỗ trợ” của các phương tiện truyền thông hiện đại, internet, mạng xã hội, những luận điệu này được khuyếch tán mạnh mẽ, sâu rộng, rất nguy hiểm. Tuy nhiên, thực chất đó chỉ là chiêu trò “thay hình, đổi dạng”, “bổn cũ soạn lại”, “bình mới, rượu cũ” để dẫn dụ người nghe. Mục đích của chúng rõ ràng là: nếu chưa xóa bỏ được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thủ tiêu được sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì chí ít cũng làm cho Nhân dân ta hoài nghi, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Không thể xuyên tạc, quy chụp rằng: Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là “sai lầm”, “lạc đường” và “đi ngược” lại xu thế phát triển của nhân loại
Cần khẳng định rằng, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội vừa sáng rõ về mặt lý luận, vừa logic về mặt thực tiễn, phù hợp với xu thế thời đại và sự vận động tất yếu của lịch sử dân tộc.
Về mặt lý luận, cần nhấn mạnh rằng, “sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”1, theo những quy luật khách quan nhất định. Theo đó, xã hội loài người phải trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Sự phát triển tuần tự hay bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể nào đó cũng là “quá trình lịch sử - tự nhiên”, do những điều kiện lịch sử cụ thể khách quan quy định. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội tuân theo quy luật khách quan của “quá trình lịch sử - tự nhiên” ấy, phù hợp với xu thế khách quan của thời đại được mở ra sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phù hợp với quy luật và đặc điểm lịch sử Việt Nam, nằm trong nội hàm và là một biểu hiện cụ thể “quá trình lịch sử - tự nhiên” của sự phát triển xã hội mà học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra.
Về mặt thực tiễn - lịch sử, ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, từ năm 1858 đến năm 1930, rất nhiều phong trào yêu nước đã nổi lên mạnh mẽ, với lập trường và đường lối cứu nước khác nhau, thể hiện khát vọng độc lập, tự do của Nhân dân ta. Song, “từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”2. Những thất bại đó cho thấy rõ sự bế tắc của việc lựa chọn con đường cứu nước, sự thiếu hụt về lực lượng lãnh đạo và thiếu vắng về một “chủ nghĩa cần theo” của dân tộc ta khi đó. Đồng thời, “hé lộ” và tạo ra “mảnh đất hiện thực” cho việc lựa chọn, xác định một “con đường khác” đúng đắn để cứu nước, cứu dân, một hệ tư tưởng mới và một lực lượng lãnh đạo mới để dẫn dắt Nhân dân ta đi theo. Như vậy, lịch sử Việt Nam đã đặt ra và khát vọng của Nhân dân ta cũng đã yêu cầu là phải giải phóng dân tộc và đòi hỏi phải đưa đất nước phát triển theo con đường nào, với lập trường nào, sau khi đã giành được độc lập dân tộc.
Những yêu cầu, đòi hỏi đó được sự vận động của lịch sử dân tộc trong thời đại mới giải quyết triệt để, trọn vẹn, trong mối quan hệ thống nhất, gắn với thực tiễn - lịch sử thế giới sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, với một chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa đã được thiết lập trên lãnh thổ rộng lớn của Liên bang Xô - Viết; giai cấp công nhân trở thành giai cấp trung tâm của thời đại; cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới có sự phát triển mới, với diện mạo mới, muốn thành công và triệt để, nhất thiết phải đi theo quỹ đạo, là bộ phận hữu cơ của cách mạng vô sản, phải dựa trên lập trường của giai cấp công nhân. Đó là xu thế khách quan của thời đại.
Thực tiễn - lịch sử, cùng tính chất “không đến nơi” của các cuộc cách mạng tư sản trên thế giới và ảnh hưởng sâu sắc của Cách mạng Tháng Mười Nga là “những dữ liệu” cho lãnh tụ Hồ Chí Minh nhìn thấy, thấu hiểu và dứt khoát lựa chọn, xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản; với lý tưởng độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn đó phản ánh tập trung tính khách quan sự vận động của lịch sử dân tộc trong bối cảnh mới, phù hợp với xu thế thời đại sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Đây là “sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta”3; “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”4. Đó là thực tế không thể xuyên tạc, bóp méo. Mọi luận điệu cho rằng, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là “sai lầm”, “đi ngược” lại sự phát triển của nhân loại là vô căn cứ, xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, phủ nhận quy luật khách quan của lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại.
Chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng và đang phát triển mạnh mẽ, khẳng định những giá trị tốt đẹp ở Việt Nam - sự thật không thể xuyên tạc, phủ nhận
Từ năm 1930 đến năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội khi đang là phương hướng phát triển, đã tạo nên động lực to lớn làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945; khi Nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một phần đất nước, thì thành quả chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã tạo ra sức mạnh và trở thành nhân tố “quyết định nhất” đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, xã hội - xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân ta xây dựng là xã hội tốt đẹp, ưu việt, với các đặc trưng đã được Đảng ta xác định rõ, đó là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do Nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”5.
Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam “ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”6, thể hiện sự trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể Việt Nam. Không chỉ xác định đặc trưng chủ nghĩa xã hội Việt Nam, xác định mục tiêu phát triển trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, “đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao”7, Đảng ta còn đề ra phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; chỉ rõ các mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình xây dựng, phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các động lực, nguồn lực xây dựng chủ nghĩa xã hội và các mục tiêu, hệ giá trị nhân văn của chủ nghĩa xã hội. Lý luận về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Đảng lãnh đạo, cầm quyền, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ngày càng sáng rõ, đúng đắn.
Hơn thế nữa, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã khẳng định sự phát triển mạnh mẽ, tính hiện thực và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Độc lập, chủ quyền và môi trường hòa bình được giữ vững, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế ngày càng phát triển, quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đời sống Nhân dân không ngừng được nâng cao. “Từ một nước nghèo, lạc hậu, Việt Nam đã thoát khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước thiếu lương thực, đến nay Việt Nam đã không những bảo đảm được an ninh lương thực cho hơn 100 triệu dân mà còn là nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% (theo chuẩn cũ) năm 1993 xuống còn khoảng 1,1% (theo chuẩn nghèo đa chiều mới) năm 2025, v.v. Việt Nam đã trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN, thứ 32 trên thế giới; GDP bình quân đầu người năm 2025 gấp gần 25 lần sau ba thập kỷ”8. Thành tựu đó đã khẳng định, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”9.
Khái lược những vấn đề nêu trên cũng đủ để cho thấy, chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã và đang là hiện thực sinh động, cụ thể trong đời sống xã hội đất nước trên cả phương diện lý luận và thực tiễn trong mối quan hệ thống nhất. Vì vậy, không thể xuyên tạc, nói bừa rằng, Việt Nam “chưa có chủ nghĩa xã hội”.
Hiện nay, Nhân dân ta đang vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với một tư thế mới, tư thế của những người làm chủ và biết làm chủ vận mệnh của mình; với một cơ đồ, tiềm lực, bộ máy tinh gọn, vị thế và uy tín quốc tế của một đất nước độc lập, tự chủ, hòa bình, ổn định, trên đà phát triển và chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong các “sân chơi” khu vực và toàn cầu. Điều đó sẽ làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày càng gặt hái được nhiều thành tựu lớn hơn nữa, Nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc. Đó là thực tế, là sự thật mà mỗi người Việt Nam đều phấn khởi, tự hào; nhân dân nhiều nước trên thế giới dõi theo, tin tưởng và ngưỡng mộ. Do vậy, mọi luận điệu xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cố tình phủ nhận sự thật hiển nhiên và tính ưu việt của chế độ ta là những luận điệu vô căn cứ, phi lịch sử, phản khoa học và phản động, đã và nhất định bị phá sản.
Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN MẠNH HƯỞNG - Thượng tá, ThS. NGUYỄN VIẾT TÂN ___________________
1 - C. Mác và Ph. Ăngghen – Toàn tập, Tập 23, Nxb CTQGST, H. 1993, tr. 21.
2 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 51, Nxb CTQG, H. 2007, tr. 14.
3 - Sđd, tr. 13 - 14.
4 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 70.
5 - Sđd, tr. 70.
6 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 25.
7 - ĐCSVN – Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb CTQGST, H. 2025, tr. 27.
8 - Sđd, tr. 19 - 20.
9 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 322.
Chủ nghĩa xã hội,tất yếu,cách mạng Việt Nam,không thể xuyên tạc,con đường khác,lạc đường
Những đóng góp to lớn của Ph. Ăngghen đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học 07/11/2025
Không thể xuyên tạc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân 06/11/2025
Không thể xuyên tạc, phủ nhận cuộc cách mạng tinh, gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Việt Nam 03/11/2025
Phản bác luận điệu phủ nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam 06/10/2025
Xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới - động lực đột phá cho sự phát triển của quốc gia trong kỷ nguyên vươn mình 27/09/2025
Sáp nhập địa giới hành chính - bước đi chiến lược để phát triển đất nước 18/09/2025
Xây dựng Quân đội hiện đại - tầm nhìn chiến lược của Đảng, mệnh lệnh từ yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, không thế lực nào có thể xuyên tạc 15/09/2025
Quân đội tích cực đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam 15/09/2025
Cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc về kỷ luật trong Quân đội 08/09/2025
Từ Cách mạng Tháng Tám đến Quốc khánh 02/9 - dòng chảy chính nghĩa không thể đảo ngược 28/08/2025
Không thể xuyên tạc, phủ nhận cuộc cách mạng tinh, gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Việt Nam
Những đóng góp to lớn của Ph. Ăngghen đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học
Không thể xuyên tạc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân