Tổng kết thực tiễn và kinh nghiệm Thực tiễn và kinh nghiệm

QPTD -Thứ Năm, 12/11/2015, 10:43 (GMT+7)
Đoàn kinh tế - quốc phòng 326 - điểm tựa vững chắc cho đồng bào vùng biên giới Tây Bắc
Hội thảo đầu bờ mô hình trồng cây lúa nước

Đoàn kinh tế - quốc phòng 326 (Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Sơn La) có nhiệm vụ phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương quản lý và tổ chức thực hiện Dự án khu kinh tế - quốc phòng Sông Mã; diện tích tự nhiên gần 243.470 ha, thuộc địa bàn 15 xã của 3 huyện: Sốp Cộp (tỉnh Sơn La), Điện Biên và Điện Biên Đông (tỉnh Điện Biên), trong đó có 9 xã biên giới, với trên 190 km đường biên giới giáp nước bạn Lào. Đây là địa bàn vùng sâu, biên giới còn nhiều khó khăn; địa hình phức tạp, núi cao, hiểm trở; các tuyến giao thông chủ yếu là đường cấp 6 dễ bị ách tắc do mưa lũ gây sạt lở; dân cư thưa thớt, gồm 6 dân tộc anh em (Thái, Mông, Lào, Khơ Mú, Mường, Kinh) chung sống tại 210 bản; trình độ dân trí thấp; kinh tế chậm phát triển, tỷ lệ hộ nghèo cao (từ 60% đến 70%); phong tục, tập quán lạc hậu, với nhiều hủ tục. Hệ thống chính trị ở cơ sở chưa được củng cố vững chắc, có bản “trắng” đảng viên; tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định, như: hoạt động phá hoại của các thế lực phản động, truyền đạo trái pháp luật, tình trạng di, dịch cư tự do, vượt biên trái phép, tội phạm buôn bán, vận chuyển các chất ma túy qua biên giới, hiện tượng tái trồng cây thuốc phiện, v.v.

Trước tình hình đó, Đảng ủy, chỉ huy Đoàn tập trung nghiên cứu đề ra lộ trình và bước đi thích hợp để đạt được mục tiêu của Dự án. Nghị quyết chuyên đề triển khai Dự án khu kinh tế - quốc phòng của Đảng ủy Đoàn xác định nhiệm vụ trọng tâm là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho đồng bào. Theo đó, Đoàn đã chủ động phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện các dự án kinh tế - quốc phòng lồng ghép có hiệu quả với các dự án, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Trong đó, tập trung vào những nhu cầu thiết yếu, bức xúc của nhân dân, như: làm đường giao thông nông thôn, xây dựng công trình thủy lợi nhỏ, đường điện, hệ thống nước sinh hoạt, khai hoang ruộng lúa nước, hỗ trợ cây giống, con giống, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Quá trình thực hiện, các đội sản xuất thường xuyên cử cán bộ, chiến sĩ có trình độ, kinh nghiệm và đội ngũ trí thức trẻ tình nguyện xuống thôn, bản khảo sát để tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương và hướng dẫn nhân dân về kỹ thuật canh tác, xác định loại cây trồng, vật nuôi chủ yếu, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng từng vùng để khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Hằng năm, Đoàn tổ chức tư vấn, hướng dẫn nhân dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi cho hàng ngàn lượt người. Cùng với đó, Đoàn chỉ đạo các đơn vị tích cực khai hoang, đẩy mạnh tăng gia, sản xuất theo mô hình VACR để vừa cải thiện đời sống cho bộ đội, vừa phổ biến, chuyển giao kỹ thuật cho đồng bào học tập, làm theo. Đến nay, các đơn vị đã xây dựng được 29 mô hình chăn nuôi, trồng trọt; nhiều mô hình phát huy hiệu quả cao, được đông đảo nhân dân đến học tập, như: nuôi cá giống của Đội 9; nuôi gà, lợn của Đội 2; nuôi dê, thả cá của Đội 8; nuôi gà, vịt thịt và lợn sinh sản của Đội 15; trồng ngô năng suất cao của Đội 13, v.v. Đoàn còn hỗ trợ hàng trăm con bò giống nuôi theo nhóm hộ gia đình; mô hình nhóm chăn nuôi cơ bản đã giao sang hộ thứ ba, một số nhóm đã chuyển sang hộ thứ tư. Nhờ đó, đồng bào đã biết làm kinh tế từ vườn, đồi bằng những cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, đoạn tuyệt với cây thuốc phiện.

Song song với đó, Đoàn ưu tiên thực hiện các công trình quan trọng, cấp thiết, như: nâng cấp hệ thống đường giao thông, điện sinh hoạt, công trình thủy lợi, xây dựng các điểm sinh hoạt văn hóa cộng đồng, trường học, trạm y tế và nhiều công trình thiết yếu khác cho khu dân cư tập trung. Để bảo đảm tiến độ, chất lượng công trình và hiệu quả đầu tư, Đoàn phát động thi đua trong lao động, sản xuất; vận dụng linh hoạt các biện pháp thi công, kết hợp với tăng cường giám sát, kiểm tra, đôn đốc các nhà thầu xây dựng, kịp thời phát hiện và giải quyết có hiệu quả những khó khăn, vướng mắc về vốn, nhân công, máy móc, giải phóng mặt bằng, v.v. Hơn mười năm qua, Đoàn đã hoàn thành và bàn giao cho địa phương 2 công trình cấp điện, bảo đảm điện sinh hoạt cho 7.768 hộ dân; 3 công trình thủy lợi tưới nước cho gần 500 ha lúa; xây dựng 20 km đường giao thông liên thôn, bản và 2,7 km đường tránh ngập, 47 cầu treo dân sinh, 21 nhà văn hóa; trồng 233 ha rừng thông Mã vĩ, v.v. Các công trình, cơ sở hạ tầng thiết yếu trên đã được địa phương khai thác, sử dụng, phát huy hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, kịp thời phục vụ sản xuất, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc trong vùng Dự án, giúp bà con yên tâm định cư lâu dài trên vùng biên giới.

Làm tốt công tác dân vận, tham gia xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh là nhiệm vụ được Đoàn thường xuyên coi trọng và xác định đây là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế, củng cố thế trận quốc phòng - an ninh, “thế trận lòng dân” trên địa bàn. Đoàn đã chủ động cùng với địa phương triển khai thực hiện tốt quy chế phối hợp hoạt động giữa Đoàn với các cơ quan, các đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc và Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện Sốp Cộp trong xây dựng kế hoạch, kiện toàn tổ chức biên chế các đội công tác cơ sở; tổ chức tập huấn, nâng cao năng lực, trình độ, khả năng hoạt động thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, trí thức trẻ tình nguyện làm công tác dân vận. Hằng năm, Đoàn cử hơn 1.000 lượt cán bộ, nhân viên xuống các thôn, bản thực hiện 4 bám (bám chính quyền; bám đường lối, chính sách; bám dân; bám địa bàn) và 4 cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc) để tuyên truyền, vận động nhân dân không di cư tự do, tái trồng cây thuốc phiện, tàng trữ sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và không nghe lời kẻ xấu, truyền đạo trái phép; chấp hành nghiêm quy chế biên giới, gương mẫu xây dựng đời sống văn hóa mới; nhận rõ âm mưu thâm độc, các quan điểm sai trái, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, xây dựng niềm tin của nhân dân với Đảng. Đoàn còn mở các lớp tuyên truyền cho các già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ và người có uy tín trong thôn, bản để nâng cao hiệu quả công tác dân vận. Đồng thời, tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở; giúp địa phương khảo sát, phân loại quần chúng ưu tú ở khu dân cư, nhất là trong lực lượng dân quân tự vệ, công an để lựa chọn, bồi dưỡng, tạo nguồn phát triển đảng viên. Từ năm 2010 đến nay, Đoàn đã phối hợp bồi dưỡng, kết nạp được 346 đảng viên, xóa 7 bản “trắng” đảng viên, củng cố 107 tổ chức đảng từ khá lên trong sạch, vững mạnh; xây dựng 99 tổ chức đoàn thanh niên, 70 chi hội phụ nữ từ yếu và trung bình lên khá.

Cùng với đó, Đoàn hết sức coi trọng công tác giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào. Trong 5 năm, Đoàn đã tổ chức nhiều lớp học xóa mù chữ cho 656 người, bồi dưỡng cho 86 học sinh yếu và xây dựng nhà ở, bếp ăn cho giáo viên Trường Tiểu học Bản Lạnh, nhà ăn cho Trường Tiểu học bán trú bản Nà Khi, làm đường cấp nước sạch tự chảy cho Trường Tiểu học Mường Lèo; đầu tư cho 2 bản Mường Và, Nà Vèn (xã Mường Và) thực hiện tiêu chí 17 về môi trường trong bộ tiêu chí Xây dựng nông thôn mới; khám, chữa bệnh, cấp thuốc điều trị miễn phí cho trên 1 vạn lượt người, hỗ trợ hàng trăm triệu đồng vào tiền ăn của bệnh nhân. Ngoài ra, Đoàn thường xuyên quan tâm thực hiện tốt công tác xã hội đối với gia đình chính sách và người nghèo, thông qua việc quyên góp quần áo, chăn màn chống rét giúp các hộ nghèo; trích một phần tiền từ lao động sản xuất và do cán bộ, chiến sĩ đóng góp để ủng hộ đồng bào bị thiên tai, bão lũ, tặng quà các gia đình chính sách; ủng hộ các quỹ “Trẻ em khuyết tật và nhiễm chất độc da cam”, “Đền ơn, đáp nghĩa”, v.v.

Từ đặc điểm địa lý và tình hình an ninh chính trị, văn hóa - xã hội của vùng Dự án, Đoàn hết sức coi trọng việc phối hợp với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX, khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị định 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ về phối hợp giữa Công an và Quân đội trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và nhiệm vụ quốc phòng, Đoàn đã tăng cường các biện pháp phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trên địa bàn, nắm chắc tình hình an ninh chính trị, tập trung ở những bản vùng cao biên giới, các điểm dân cư xa sự quản lý của chính quyền cơ sở; kịp thời tham mưu, xử lý các tình huống phức tạp, không để bị động, bất ngờ. Đoàn chủ động khảo sát, nghiên cứu tình hình các điểm dân cư, tham mưu để địa phương bố trí lại cho phù hợp với quy hoạch sản xuất và mục tiêu lâu dài của quốc phòng, an ninh, hình thành các cụm làng, xã biên giới trong thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương đầu tư gần 20 tỷ đồng để hỗ trợ việc di dân và xây dựng điểm dân cư mới ở bản Na Ố (xã Mường Nhà). Thực hiện chương trình này, đến nay, Đoàn đã hỗ trợ chuyển được 896 hộ dân đến nơi ở mới; trong đó có 90 hộ gia đình quân nhân từ địa phương khác tình nguyện đến định cư. Cùng với điều chỉnh, bố trí dân cư, Đoàn còn tham gia giúp đỡ ban chỉ huy quân sự các xã củng cố lực lượng dân quân, tự vệ theo hướng “vững mạnh, rộng khắp”, đạt tỷ lệ 2,17% so với dân số. Lực lượng dự bị động viên từng bước được củng cố, đảm bảo số lượng và chất lượng, nhất là chất lượng chính trị, chuyên nghiệp quân sự. Thực hiện quy chế phối hợp với các ban, ngành chức năng của địa phương và các lực lượng khác trên địa bàn, Đoàn tích cực tham gia xây dựng, bổ sung hoàn chỉnh hệ thống kế hoạch và luyện tập các phương án tác chiến, chiến đấu trị an, tìm kiếm cứu nạn, phòng chống, khắc phục hậu quả lụt bão, cháy rừng, v.v.

Bằng những biện pháp đồng bộ và cách làm sáng tạo, hiệu quả, Đoàn kinh tế - quốc phòng 326 đã và đang góp phần thay đổi diện mạo vùng Dự án. Hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu cho sinh hoạt, phát triển sản xuất đã phát huy tác dụng, giúp người dân có thể đi đến trung tâm xã, huyện cả 4 mùa bằng phương tiện cơ giới, 90% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 35%; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trong vùng Dự án được đảm bảo, thiết thực góp phần củng cố mối quan hệ quân - dân, tô thắm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Đoàn thực sự là chỗ dựa tin cậy của cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương vùng Dự án.

Đại tá CHU NGỌC KHANH, Đoàn trưởng

Ý kiến bạn đọc (0)

Phát huy truyền thống, Hải đoàn 128 thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng gắn với phát triển kinh tế
Những năm qua, Đảng ủy, chỉ huy Hải đoàn đã quán triệt sâu sắc chủ trương, quan điểm của Đảng, sát cánh, đồng hành, phối hợp với cơ quan chức năng các địa phương: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,... làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển.