QPTD -Thứ Ba, 27/08/2013, 10:46 (GMT+7)
Thông tin về biển, đảo Việt Nam
Đi qua không gây hại trong lãnh hải theo Luật Biển Việt Nam
Tàu Cảnh sát biển Việt Nam (Ảnh minh họa)

Luật Biển Việt Nam, Điều 23 (Khoản 1 và 2) quy định:

“1. Đi qua lãnh hải là việc tàu thuyền nước ngoài đi trong lãnh hải Việt Nam nhằm một trong các mục đích sau:

a) Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy Việt Nam, không neo đậu lại trong một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu ở bên ngoài nội thủy Việt Nam;

b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy Việt Nam hay đậu lại hoặc rời khỏi một công trình cảng, bến hay nơi trú đậu ở bên ngoài nội thủy Việt Nam.

2. Việc đi qua lãnh hải phải liên tục và nhanh chóng, trừ trường hợp gặp sự cố hàng hải, sự cố bất khả kháng, gặp nạn hoặc vì mục đích phải cứu giúp người, tàu thuyền hay tàu bay đang gặp nạn”.

Quy định trên của Luật Biển Việt Nam là phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước năm 1982). Điều 17 của Công ước quy định: “Với điều kiện phải chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả các quốc gia có biển hay không có biển đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải”. Tuy nhiên, việc đi qua lãnh hải phải nhằm mục đích: đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy, không đậu lại trong một vũng tàu hoặc một công trình cảng ở bên ngoài nội thủy; hoặc, đi vào hoặc rời khỏi nội thủy, hoặc đậu lại hay rời khỏi một vũng tàu hay một công trình cảng ở ngoài nội thủy nêu trên (Điều 18) và việc đi qua phải liên tục, nhanh chóng theo quy định của Công ước.

Tiếp đó, Điều 23 (Khoản 3) của Luật Biển Việt Nam còn quy định:

“3. Việc đi qua không gây hại trong lãnh hải không được làm phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn trên biển. Việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam bị coi là gây phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn xã hội nếu tàu thuyền đó tiến hành bất kỳ một hành vi nào sau đây:

a) Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam;

b) Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc;

c) Luyện tập hay diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ hình thức nào;

d) Thu thập thông tin gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam;

đ) Tuyên truyền nhằm gây hại đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam;

e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện bay lên tàu thuyền;

g) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện quân sự lên tàu thuyền;

h) Bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu thuyền trái với quy định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế, y tế hoặc xuất nhập cảnh;

i) Cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển;

k) Đánh bắt hải sản trái phép;

l) Nghiên cứu, điều tra, thăm dò trái phép;

m) Làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống thông tin liên lạc hoặc của thiết bị hay công trình khác của Việt Nam;

n) Tiến hành hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua”. Đây được coi là điểm cốt yếu nhất của việc đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam

Về vấn đề này, Công ước năm 1982 đã giải thích rõ nghĩa của thuật ngữ đi qua không gây hại trong lãnh hải. Đó là: “Việc đi qua không gây hại, chừng nào nó không làm phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển. Việc đi qua không gây hại cần phải được thực hiện theo đúng với các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế” (Điều 19). Đồng thời, Công ước cũng quy định cụ thể các hành vi (khi đi qua lãnh hải) của tàu thuyền nước ngoài bị coi như phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh đối với quốc gia ven biển.

Như vậy, quy định: đi qua không gây hại trong lãnh hải của Luật Biển Việt Nam là phù hợp, thống nhất với Công ước năm 1982.

Tạ Quang (thực hiện)

Ý kiến bạn đọc (0)