QPTD -Chủ Nhật, 24/08/2025, 20:29 (GMT+7)
Về quan điểm “Nâng cao năng lực quản trị phát triển của Nhà nước” trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng được Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo chuẩn bị công phu, nghiêm túc, kỹ lưỡng, đã kế thừa và phát triển nhiều nội dung quan trọng. Trong đó, quan điểm về “nâng cao năng lực quản trị phát triển của Nhà nước” là một trong những điểm nhấn, thể hiện tư duy mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng ta trong kỷ nguyên mới.

Trong mỗi giai đoạn lịch sử cũng như quá trình lãnh đạo cách mạng, đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng luôn là nhân tố cơ bản hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Với tinh thần đó, dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng lần này, những quan điểm chỉ đạo xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn mới được Đảng ta kế thừa, bổ sung, phát triển, đề xuất nhiều điểm mới có tính đột phá; một trong những nội dung đó là nâng cao năng lực quản trị quốc gia, cốt lõi và trọng tâm là nâng cao năng lực quản trị phát triển của Nhà nước. Đây không đơn thuần là một thuật ngữ mới, mà là sự kết tinh của quá trình tìm tòi, phát triển lý luận, phản ánh sự chuyển dịch căn bản nhận thức về vai trò của Nhà nước trong bối cảnh mới. Quan điểm này có ý nghĩa chiến lược, chìa khóa để tháo gỡ những “điểm nghẽn” về thể chế và huy động tối đa các nguồn lực nhằm hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, thịnh vượng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tham quan triển lãm về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Ảnh: TTXVN

Trước hết, về vị trí, vai trò năng lực quản trị của Nhà nước đối với sự phát triển của đất nước. Trong các kỳ đại hội trước, nhất là Đại hội XIII, Đảng ta mới bàn sâu về vấn đề “quản lý, điều hành” của Nhà nước trong cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và khẳng định: “Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng”1 là một nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bối cảnh mới đã, đang đặt ra những vấn đề mà tư duy “quản lý” truyền thống không còn phù hợp, kìm hãm sự phát triền của xã hội. Nhận thức rõ     điều này, tại Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, Đảng ta đã đề cập đến năng lực “quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả”, nhưng chưa chỉ rõ chủ thể chính trong năng lực quản trị quốc gia đó là Nhà nước.

Đến dự thảo Văn kiện lần này, Đảng ta đã chính thức đưa ra quan điểm về “năng lực quản lý, quản trị phát triển của Nhà nước”2, đồng thời khẳng định phải “Từng bước hoàn thiện đồng bộ thể chế về quản lý phát triển xã hội và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội”3. Sự chuyển dịch từ tư duy “quản lý” sang “quản trị” mang ý nghĩa sâu sắc, một bước tiến mới trong xác định vai trò của Nhà nước không đơn thuần chỉ là người “quản lý” mà còn mở rộng vai trò là người kiến tạo, phục vụ, dẫn dắt và điều phối, tạo ra không gian, điều kiện phát triển mới và công bằng cho toàn xã hội. Đây là bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy của Đảng về năng lực quản trị quốc gia, cốt lõi trọng tâm là năng lực quản trị phát triển của Nhà nước, nhằm tạo điểm tựa vững chắc cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Nhận thức và tư duy mới của Đảng về năng lực quản trị phát triển của Nhà nước được xây dựng trên nền tảng lý luận khoa học vững chắc và được kiểm nghiệm, đúc kết từ thực tiễn sinh động của đất nước sau gần 40 năm đổi mới.

Về phương diện lý luận, khoa học quản trị quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ, cung cấp cơ sở lý luận phong phú và toàn diện để Đảng ta tiếp tục hoàn thiện tư duy về quản trị phát triển của Nhà nước. Quản trị, ở cấp độ cơ bản nhất được hiểu là sự tác động có chủ đích của một chủ thể (cá nhân, tổ chức, nhà nước) đến một đối tượng nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực; trong đó, quản trị phát triển của Nhà nước là một lĩnh vực trọng tâm, bao trùm. Bởi lẽ, Nhà nước là thiết chế cơ bản, trụ cột của bất cứ một mô hình thể chế chính trị nào, là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội nhằm thực thi quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền. Ở nước ta, Nhà nước là chủ thể đại diện Nhân dân quản trị phát triển xã hội, nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Năng lực quản trị phát triển của Nhà nước ta là yếu tố then chốt để đảm bảo sự ổn định, phát triển nhanh, bền vững của đất nước và được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhưng, suy cho cùng, mục đích cốt lõi và rõ ràng nhất của năng lực quản trị này là duy trì sự tồn tại và phát triển của Nhà nước, phục vụ đắc lực cho người dân, doanh nghiệp và toàn xã hội, tạo điều kiện và điểm tựa vững chắc để đất nước phát triển mạnh mẽ, bền vững trong kỷ nguyên mới.

Về phương diện thực tiễn, đánh giá thành tựu thực hiện nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và cơ đồ của đất nước sau 40 năm đổi mới, Dự thảo khẳng định: “Đất nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện, nhiều điểm sáng nổi bật, đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu chủ yếu đề ra”4. Đặc biệt, kinh tế tăng trưởng khá, đạt mức trung bình 6,2%/năm, thuộc nhóm tăng trưởng cao của khu vực và thế giới; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước được giữ vững; chính trị - xã hội ổn định,…; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố và tăng cường; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế được mở rộng và nâng tầm; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao; niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa không ngừng được nâng lên.

Tuy nhiên, những tồn tại, hạn chế, như: thủ tục hành chính còn rườm rà; bộ máy hành chính còn cồng kềnh, chưa thực sự hiệu lực, hiệu quả,... đã và đang cản trở sự phát triển của đất nước chưa được tháo gỡ, khắc phục triệt để. Những vấn đề đó được Đảng ta chỉ ra trong Dự thảo, đã phản ánh năng lực quản lý xã hội của Nhà nước có mặt còn chưa thật sự đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần nhấn mạnh sự cần thiết phải nhận diện, giải quyết triệt để các “điểm nghẽn”, “nút thắt” đang cản trở sự phát triển; đồng thời nhấn mạnh rằng thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn” và dứt khoát phải từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. Muốn khắc phục điều này, phải đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế với tư duy đổi mới, vừa quản lý chặt chẽ vừa kiến tạo phát triển, nhằm huy động tối đa các nguồn lực, tạo không gian phát triển mới và khung khổ pháp lý hiệu quả.

Để phấn đấu đạt được mục tiêu “Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phát triển nhanh, bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; cải thiện và nâng cao toàn diện đời sống nhân dân; tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc; thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao vì một nước Việt Nam hòa bình,... vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”5, cùng với nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị,... Đảng ta khẳng định phải “nâng cao năng lực quản lý, quản trị phát triển của Nhà nước”. Đây là quan điểm rất đúng đắn của Đảng ta về vai trò quản trị phát triển của Nhà nước đối với sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Đồng thời, việc nghiên cứu lý luận về quản trị cũng như kinh nghiệm từ công cuộc cải cách, mở cửa của một số quốc gia trên thế giới là kinh nghiệm quý báu để Đảng ta khẳng định nâng cao năng lực quản trị phát triển của Nhà nước là điểm tựa vững chắc đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Thực hiện điều đó, cần làm rõ nội hàm quan điểm “năng lực quản trị phát triển của Nhà nước” trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Về vấn đề này, theo chúng tôi, “năng lực quản trị phát triển của Nhà nước” rất rộng lớn, không chỉ là năng lực điều hành, ban hành chính sách, mà còn bao hàm nhiều yếu tố, thể hiện trên nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh. Tựu chung có thể hiểu trên một số vấn đề cơ bản là “Xây dựng nền quản lý, quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, phục vụ và kiến tạo phát triển”6. Bao gồm việc đột phá đổi mới về thể chế, chính sách, nguồn lực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của người dân, doanh nghiệp và toàn xã hội nhằm phát triển đất nước nhanh và bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện đột phá về đổi mới thể chế, khắc phục những “điểm nghẽn”, “nút thắt” về hệ thống pháp luật, chính sách, quy trình, các nguồn lực của phát triển để bảo đảm tính minh bạch, công bằng, hiệu quả và đi liền với nâng cao năng lực phản ứng chính sách linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn. Đồng thời, đặc biệt chú ý đến các vấn đề, như: đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, hướng mạnh về cơ sở, gần dân, sát dân, vì dân và thực hiện phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước có đủ phẩm chất, năng lực không ngừng đổi mới, sáng tạo, tâm huyết, trách nhiệm cao, quản trị tốt việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng với yêu cầu phát triển đất nước; tăng cường sự tham gia của Nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội, nâng cao năng lực quản trị của mỗi người dân; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, xây dựng và vận hành mô hình Chính phủ số, chính quyền số, xã hội số,…; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân thực hiện đồng bộ phương châm 4 không: “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phát triển mạng lưới dịch vụ công đa dạng, chất lượng, minh bạch, dễ tiếp cận, không ai bị để lại phía sau, v.v. Mặt khác, nâng cao năng lực quản trị phát triển của Nhà nước còn biểu hiện trong quản trị phát triển cộng đồng bền vững; quản trị phát triển trên các lĩnh vực cụ thể: kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v.

Quan điểm “nâng cao năng lực quản trị phát triển của Nhà nước” thể hiện sự phát triển mới về tư duy của Đảng đối với vai trò quản trị phát triển của Nhà nước trong kỷ nguyên mới; cần được tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả trên thực tế, qua đó góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN SỸ HỌA, Học viện Lục quân
__________________
       

1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 42.

2 - ĐCSVN – Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb CTQGST, H. 2025, tr. 27.

3 - ĐCSVN – Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb CTQGST, H. 2025, tr. 151.

4 - Sđd, tr. 13.

5 - ĐCSVN – Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb CTQGST, H. 2025, tr. 27.

6 - Sđd, tr. 55.

Ý kiến bạn đọc (0)

DỰ THẢO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XIII TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIV CỦA ĐẢNG
Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030; tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc vì hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.