Thứ Năm, 30/10/2025, 09:37 (GMT+7)
Quốc dân Đại hội Tân Trào diễn ra vào ngày 16 - 17/8/1945 tại đình Tân Trào, Tuyên Quang, là một sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam, mở ra thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc dân Đại hội có ý nghĩa như một Quốc hội lâm thời - tiền thân của Quốc hội Việt Nam, thể hiện niềm tin sâu sắc của Nhân dân với Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm của toàn dân tộc trong việc giành độc lập và xây dựng một nhà nước mới. Qua mỗi thời kỳ lịch sử, tiếp nối các giá trị của Quốc dân Đại hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động, bám sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Trước sự chuyển biến của tình hình thế giới có lợi cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam, tháng 10/1944, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu Quốc dân để thành lập một cơ cấu đại biểu cho sự đoàn kết và nhất trí của toàn thể quốc dân, tạo nên sức mạnh dân tộc bên trong và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, chớp thời cơ thuận lợi thực hiện cho được mục tiêu độc lập, tự do.
Giữa tháng 8/1945, khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Quốc dân Đại hội được tổ chức với sự tham dự của các đại biểu đại diện cho cả 3 miền: Bắc - Trung - Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số kiều bào ta ở nước ngoài. Đại hội đã tán thành chủ trương của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, quyết định phát động Tổng khởi nghĩa, lãnh đạo quần chúng nổi dậy, giành chính quyền từ tay quân Nhật, thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, quy định về Quốc kỳ, Quốc ca và nhiều chiến lược quan trọng khác của cách mạng Việt Nam.
Quốc dân Đại hội Tân Trào đã thể hiện ý chí mạnh mẽ, tinh thần đoàn kết nhất trí của toàn thể dân tộc Việt Nam trong giờ phút quyết định vận mệnh của đất nước, quyết tâm thực hiện đường lối tổng khởi nghĩa, xóa bỏ chế độ nô dịch thực dân, phong kiến, thi hành chính sách 10 điểm của Việt Minh, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho một chế độ mới. Đây là thắng lợi lớn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đánh giá đúng tình hình cách mạng trong nước và thế giới, chớp đúng thời cơ giành chính quyền. Những quyết nghị Đại hội thông qua là bước thực thi dân chủ, xây dựng Nhà nước do Nhân dân làm chủ, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay trong tiến trình đấu tranh giành độc lập dân tộc. Từ những quyết sách của Đại hội, toàn thể Nhân dân Việt Nam đã nhất tề khởi nghĩa giành chính quyền, đưa cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đến thắng lợi hoàn toàn. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi giành được độc lập, trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn, dưới sự lãnh đạo hết sức tài tình và sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, giai cấp, tôn giáo, chính kiến, đã tiến hành thắng lợi cuộc tổng tuyển cử ngày 06/01/1946, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và xây dựng Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam độc lập, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Ðông Nam Á, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam. Quốc dân Đại hội Tân Trào là một bước tiến lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta, mang tầm vóc lịch sử của một Quốc hội, một cơ quan quyền lực nhà nước lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: ““Việt Nam quốc dân đại biểu Đại hội”, cử ra ỦY BAN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG VIỆT NAM để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập. Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay”1.
Từ Quốc dân Đại hội Tân Trào tiến tới sự ra đời của Quốc hội khóa I đến nay, Quốc hội đã trải qua 80 năm với 15 khóa. Mỗi một nhiệm kỳ của Quốc hội là một quá trình liên tục kế thừa, phát huy giá trị của Quốc dân Đại hội, không ngừng đổi mới cả về tổ chức và hoạt động, khẳng định vị trí, vai trò của một thiết chế đặc biệt quan trọng của bộ máy nhà nước, là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội đã đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ chiến lược trong từng giai đoạn cách mạng, đóng góp to lớn và quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quốc hội là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, với cơ cấu, tổ chức, bộ máy không ngừng được hoàn thiện. Qua các nhiệm kỳ, số lượng đại biểu Quốc hội được xác định phù hợp2, đến nay, giữ ổn định không quá 500 đại biểu. Cơ cấu đại biểu ngày càng hợp lý, đại diện đầy đủ các thành phần, giai tầng, vùng miền, dân tộc, tôn giáo trong xã hội. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến rất phức tạp, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV đã ghi nhận quy mô và tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử lớn nhất từ trước tới nay. Cơ cấu về đại biểu trẻ tuổi, đại biểu là người dân tộc thiểu số đều đạt hoặc vượt so với chỉ tiêu đặt ra, trong đó có 151 đại biểu là nữ, chiếm 30,26%; 89 đại biểu là người dân tộc thiểu số, chiếm 17,84%; 47 đại biểu trẻ, chiếm 9,42%; 14 đại biểu là người ngoài Đảng. Lần đầu tiên trong các nhiệm kỳ Quốc hội, tỷ lệ đại biểu Quốc hội dự kiến hoạt động chuyên trách trúng cử đạt tỷ lệ cao nhất, chiếm 38,6%. Tổ chức bộ máy của Quốc hội được đổi mới, kiện toàn phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn, bảo đảm hoạt động chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả. Ban đầu, Quốc hội khóa I chỉ có 03 tiểu ban: Pháp chế, Tài chính kinh tế và Kiến nghị3. Từ khóa III, Quốc hội đã thành lập các Ủy ban tham mưu, giúp việc cho Quốc hội4; số lượng các Ủy ban được điều chỉnh theo yêu cầu của thực tiễn. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, Quốc hội đã khẩn trương hoàn thành việc sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, giảm từ 14 cơ quan xuống còn 9 cơ quan, đạt tỷ lệ giảm 37,5%. Các vụ, đơn vị tham mưu giúp việc cho Quốc hội trực thuộc Văn phòng Quốc hội giảm trên 51% đầu mối. Sau sắp xếp, các cơ quan của Quốc hội đã khẩn trương ổn định tổ chức, hoàn thiện các quy chế, quy định, bước đầu phát huy hiệu quả của mô hình tổ chức mới.
Quốc hội đã kịp thời thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành chính sách và pháp luật, phản ánh chân thực ý chí, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân, bám sát yêu cầu của cuộc sống. Với sự nỗ lực, đổi mới của Quốc hội, công tác lập pháp không ngừng được cải thiện, nâng cao hiệu quả, chất lượng. Đến nay, hệ thống pháp luật nước ta đã bao quát toàn diện, cơ bản điều chỉnh tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phù hợp với chuẩn mực thế giới, với gần 300 bộ luật, luật đang có hiệu lực thi hành. Một trong những thành tựu lớn trong công tác lập pháp là Quốc hội đã thông qua 05 bản Hiến pháp, tạo lập nền tảng chính trị, pháp lý cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước. Nhiều bộ luật, luật lớn về dân sự, kinh doanh, thương mại, hành chính, hình sự, tố tụng, giải quyết tranh chấp đã được ban hành và hoàn thiện, có ý nghĩa quan trọng, tác động sâu rộng đến đời sống kinh tế - xã hội. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của Nhân dân; thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền tự do kinh doanh, bình đẳng, theo pháp luật; bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường; thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; đẩy mạnh cải cách tư pháp; tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm; củng cố quốc phòng, bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trong giai đoạn gần đây, công tác lập pháp đã có những tiến bộ vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến nay, Quốc hội đã ban hành 99 luật, 165 nghị quyết. Tính riêng Kỳ họp thứ 9, Quốc hội đã ban hành 34 luật, 34 nghị quyết. Đặc biệt, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sửa đổi Luật Tổ chức chính quyền địa phương, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện chủ trương sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, xây dựng mô hình chính quyền địa phương 02 cấp tinh gọn, giảm cấp trung gian, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị quốc gia và địa phương, tái cấu trúc toàn diện không gian phát triển đất nước. Đồng thời, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành theo thẩm quyền các nghị quyết về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã để chính thức thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp từ ngày 01/7/2025. Đây là những quyết định trọng đại, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến toàn hệ thống chính trị, đến từng người dân và toàn xã hội.
Từ Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV đến nay, Quốc hội đã đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. Công tác xây dựng pháp luật bám sát thực tiễn, có tính dự báo cao, nâng cao năng lực phản ứng chính sách và giải quyết hiệu quả, kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới. Các dự án luật được tiếp thu, chỉnh lý theo hướng chỉ quy định các vấn đề mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; quy định cụ thể các nội dung liên quan đến quyền con người, quyền, nghĩa vụ của công dân, tố tụng tư pháp, các vấn đề có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân và xã hội. Đối với các nội dung quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực, các vấn đề mới, có tính kiến tạo phát triển, các vấn đề chưa có thực tiễn kiểm nghiệm, luật chỉ quy định các nội dung chính sách có tính nguyên tắc, định hướng thuộc thẩm quyền của Quốc hội để thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng; phân quyền cho Chính phủ, các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong việc tiếp tục cụ thể hóa các quy định của luật và thực hiện phân cấp bảo đảm phù hợp với năng lực tổ chức thực hiện.
Hoạt động giám sát của Quốc hội tiếp tục được đổi mới, tăng cường, ngày càng đi vào thực chất và phát huy hiệu quả thiết thực, gắn bó chặt chẽ với công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật và xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, được cử tri và Nhân dân đồng thuận, đánh giá cao. Nội dung giám sát đã bao quát toàn diện các lĩnh vực, tập trung trọng tâm, trọng điểm vào những vấn đề cấp thiết, bức xúc của cuộc sống. Phương thức giám sát liên tục được đổi mới, linh hoạt, phù hợp với nội dung và đối tượng được giám sát. Việc xem xét báo cáo của các cơ quan được thực hiện có hiệu quả, có ý nghĩa quan trọng đối với việc kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội không ngừng được đổi mới cả về phương pháp, nội dung chất vấn. Các phiên chất vấn diễn ra trong không khí dân chủ, sôi nổi, thẳng thắn, có tính xây dựng cao, làm rõ được trách nhiệm của người được chất vấn. Hoạt động chất vấn đã kịp thời chỉ ra những hạn chế, bất cập, thể hiện trách nhiệm đồng hành, chung tay, sát cánh cùng Chính phủ trong việc triển khai các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động giám sát chuyên đề được thực hiện có hiệu quả, tạo hiệu ứng tích cực trong xã hội, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với hoạt động của Quốc hội. Đặc biệt, hoạt động “giám sát lại” được chú trọng và đẩy mạnh tại nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, thể hiện thái độ, trách nhiệm của Quốc hội trong giám sát đến cùng đối với việc thực hiện các kết luận, kiến nghị giám sát.
Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn được tiến hành nghiêm túc, công khai, phát huy dân chủ trong hoạt động của cơ quan dân cử5. Việc giám sát văn bản quy phạm pháp luật được tăng cường, bảo đảm các văn bản pháp luật được ban hành kịp thời, phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Thông qua giám sát, Quốc hội đã kịp thời phát hiện và có các kiến nghị nhằm điều chỉnh, bổ sung chính sách, pháp luật; phát huy tính tích cực, giảm thiểu những hệ lụy nảy sinh từ các văn bản quy phạm pháp luật; chấn chỉnh kịp thời các sai sót, bất cập, thúc đẩy các cơ quan hữu quan thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.
Quốc hội đã không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả thảo luận, quyết nghị nhiều vấn đề quan trọng của đất nước; thực hiện đầy đủ, linh hoạt và hiệu quả việc quyết định các vấn đề quan trọng về kinh tế, xã hội. Việc xem xét, quyết định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm và hằng năm, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế bảo đảm tính tổng thể, có sự gắn kết chặt chẽ giữa yêu cầu nhiệm vụ và nguồn lực thực hiện. Nhiều quyết định mang tính đột phá, chưa từng có tiền lệ, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn như: chính sách tài khóa tiền tệ trong bối cảnh Covid-19; cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân; thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; quyết định chủ trương đối với các chương trình, dự án quốc gia, có ý nghĩa chiến lược như: các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 và 2021 - 2025, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, phê duyệt Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch không gian biển quốc gia, v.v.
Quốc hội quyết định các chủ trương quan trọng về quốc phòng, an ninh, chính sách cơ bản về đối ngoại6 góp phần bảo vệ biên giới lãnh thổ7, chủ quyền quốc gia và thúc đẩy phát triển kinh tế; mở ra cơ hội lớn, vận hội mới cho đất nước. Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng về tổ chức và nhân sự cấp cao của Nhà nước kịp thời, đúng thẩm quyền, bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thủ tục theo luật định và phù hợp với tình hình thực tiễn; qua đó, tiếp tục củng cố, kiện toàn, bảo đảm hoạt động thông suốt của bộ máy nhà nước. Qua các nhiệm kỳ, quy trình, thủ tục xem xét quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước luôn được đổi mới, hoàn thiện hơn và góp phần quan trọng vào việc ban hành các nghị quyết có chất lượng, tính khả thi cao, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. Đây là sự kế thừa, tiếp nối dòng chảy liên tục, không ngừng, luôn phát huy vai trò, trí tuệ tập thể, tính chủ động, sáng tạo của đại biểu Quốc hội, phản ánh ý chí và nguyện vọng của Nhân dân.
Đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Thể chế, pháp luật có chất lượng, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn và nguyện vọng của Nhân dân là yếu tố hàng đầu quyết định thành công của mỗi quốc gia. Do đó, để đất nước vươn mình phát triển mạnh mẽ, chúng ta dứt khoát nói “không” với bất cứ hạn chế, bất cập nào trong thể chế, pháp luật; không thỏa hiệp với bất kỳ yếu kém nào trong thiết kế chính sách, soạn thảo pháp luật, hay tổ chức thực thi”8. Trước những yêu cầu mới, Quốc hội tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, gương mẫu đi đầu, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động; chú trọng thực hiện một số vấn đề sau:
1. Phát huy những thành tựu và kinh nghiệm của gần 80 năm qua, tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đáp ứng tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vị trí, vai trò của Quốc hội trong hệ thống chính trị nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nêu cao tinh thần đoàn kết, dân chủ, công khai, minh bạch; phát huy trí tuệ tập thể; quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, gần dân, hiểu dân, trọng dân; lắng nghe Nhân dân, phục vụ Nhân dân đối với mọi hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội.
2. Quán triệt sâu sắc, quyết tâm cao nhất, hành động quyết liệt để tổ chức thực hiện thành công Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và các chỉ đạo, định hướng của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về công tác xây dựng pháp luật. Bên cạnh một số bộ luật, luật quy định về quyền con người, quyền công dân, tố tụng tư pháp, cần cụ thể, về cơ bản các luật khác, nhất là luật điều chỉnh các nội dung về kiến tạo, phát triển, chỉ quy định những vấn đề, những nội dung có tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội, còn những vấn đề thường xuyên biến động thì giao Chính phủ, bộ, ngành, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với thực tiễn. Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật; thể chế hóa kịp thời, đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật; phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng và thi hành pháp luật. Thực hiện nghiêm kỷ cương, kỷ luật, các quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong xây dựng và thi hành pháp luật. Đây là khâu đột phá của đột phá, bảo đảm luật pháp trở thành lợi thế cạnh tranh.
3. Xây dựng Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI và Chương trình xây dựng pháp luật hằng năm bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Bảo đảm mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán; tạo tiền đề quan trọng thực hiện hai mục tiêu chiến lược, trở thành một nước đang phát triển công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Trong đó, tập trung thể chế hóa 04 nghị quyết chiến lược của Bộ Chính trị; xây dựng và hoàn thiện pháp luật về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, phi truyền thống nhằm xác lập mô hình tăng trưởng mới, hình thành các động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất mới, các ngành công nghiệp mới; sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật đáp ứng yêu cầu thực hiện chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, sắp xếp đơn vị hành chính, gắn với phân cấp, phân quyền triệt để, đồng bộ; về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng cải cách tư pháp.
4. Tăng cường giám sát việc cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật và việc tổ chức thực hiện pháp luật. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp thực sự là một trong những phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước, là hoạt động trọng yếu, thường xuyên của cơ quan dân cử. Tập trung sửa đổi toàn diện Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân; làm rõ khái niệm, thống nhất nhận thức về hoạt động giám sát của cơ quan dân cử; bám sát các nguyên tắc giám sát: Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm khách quan, công khai, minh bạch, giám sát toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, gắn kết giữa hoạt động giám sát với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương, không làm cản trở hoạt động bình thường của các đối tượng chịu sự giám sát; Phân biệt rõ với hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước khác; làm rõ phạm vi, đối tượng giám sát tối cao thường xuyên của Quốc hội; giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân. Nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn, giải trình, giám sát chuyên đề, giám sát giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo, lấy giám sát văn bản quy phạm pháp luật, nhất là văn bản quy định chi tiết làm khâu đột phá.
5. Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội, tiên phong trong chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn là một trong bốn đột phá. Chủ động, tích cực áp dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Triển khai hiệu quả Đề án Chuyển đổi số của Quốc hội giai đoạn 2025 - 2030. Tập trung ưu tiên nguồn lực xây dựng các hệ thống phần mềm công nghệ thông tin, ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn để hỗ trợ công tác lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng. Phát triển các nền tảng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu dùng chung cho các cơ quan của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội.
6. Đột phá nâng cao hơn nữa chất lượng đại biểu Quốc hội và đội ngũ cán bộ tham mưu, giúp việc tại các cơ quan của Quốc hội. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lựa chọn giới thiệu và tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội; tăng cường mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri; tăng số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, phát huy mạnh mẽ vai trò của đại biểu Quốc hội chuyên trách ở Trung ương và địa phương. Củng cố, nâng cao năng lực các cơ quan tham mưu, giúp việc của Quốc hội.
Thực hiện tốt những vấn đề nêu trên chính là thiết thực tiếp nối giá trị của Quốc dân Đại hội Tân Trào, không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Thượng tướng TRẦN QUANG PHƯƠNG, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam _______________________
1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 595.
2 - Số lượng đại biểu Quốc hội qua một số khóa Quốc hội như sau: Khóa I - 403 đại biểu, Khóa II - 453 đại biểu, Khóa VI - 492 đại biểu, Khóa XIII - 500 đại biểu, Khóa XIV - 498 đại biểu, Khóa XV - 499 đại biểu (https://quochoi.vn/tulieuquochoi/tulieu/baucuquochoi/Pages/bau-cu-quoc-hoi.aspx?ItemID=23986).
3 - Lịch sử Quốc hội Việt Nam, Tập I (1946 - 1960), Nxb CTQGST, H. 2016, tr. 120.
4 - Sđd, Tập II (1960 - 1976), H. 2016, tr. 80.
5 - Bắt đầu từ Khóa XIII, Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Tính đến nay, Quốc hội đã tổ chức 04 lần lấy phiếu tín nhiệm; hoạt động lấy phiếu được tiến hành nghiêm túc, công khai, minh bạch.
6 - Phê chuẩn nhiều điều ước quốc tế đặc biệt quan trọng như: phê chuẩn các hiệp định về đầu tư, thương mại thế hệ mới CPTPP, EVFTA, EVIPA,…; phê chuẩn các hiệp ước, nghị định thư liên quan đến biên giới quốc gia và ban hành Nghị quyết về tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, v.v.
7 - Như: Nghị quyết số 39/2017/QH14, ngày 19/6/2017 của Quốc hội phê chuẩn Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về việc sửa đổi điểm khởi đầu của đường biên giới quốc gia Việt Nam - Lào; Nghị quyết số 40/2017/QH14, ngày 19/6/2017 của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Nghị quyết số 98/2019/QH14, ngày 27/11/2019 của Quốc hội về Phê chuẩn Hiệp ước bổ sung Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005 và Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia.
8 - https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/dot-pha-the-che-phap-luat-de-dat-nuoc-vuon-minh.
Quốc dân Đại hội,đổi mới tổ chức,hoạt động,Quốc hội,phát triển đất nước,kỷ nguyên mới
Tuyên dương các lực lượng tham gia diễu binh, diễu hành Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 07/09/2025
Thư cảm ơn của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi các cơ quan báo chí 04/09/2025
Diễn văn của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 02/09/2025
Vận dụng bài học trong Cách mạng Tháng Tám vào nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ Quân đội hiện nay 31/08/2025
Tổng duyệt cấp Nhà nước diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 30/08/2025
Khai mạc Triển lãm “80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” 28/08/2025
Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Sơ duyệt cấp Nhà nước diễu binh, diễu hành 28/08/2025
Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam tổ chức về nguồn tại ATK Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên 21/08/2025
Mùa Thu Cách mạng và khát vọng hùng cường 19/08/2025
Tổng Bí thư Tô Lâm gặp mặt cán bộ lão thành cách mạng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 19/08/2025