Những chủ trương công tác lớn Chuyên luận chỉ đạo

QPTD -Thứ Năm, 10/07/2025, 06:50 (GMT+7)
Đẩy mạnh triển khai thực hiện Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp

Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 27/6/2024 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2025. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, bước phát triển mới trong xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh nói riêng và công nghiệp quốc gia nói chung. Để Luật đi vào cuộc sống, phát huy hiệu lực, hiệu quả đòi hỏi cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn quân cần tập trung quán triệt, triển khai thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc.

Ban hành Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đánh dấu bước phát triển vượt bậc về tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo động lực và định hướng phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, gắn kết chặt chẽ quốc phòng, an ninh với kinh tế, xây dựng nền quốc phòng tự chủ, bền vững, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Thượng tướng Phạm Hoài Nam phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Ban soạn thảo các nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Ảnh: qdnd.vn

Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp bao gồm 07 chương và 86 điều, quy định chi tiết về vị trí, nhiệm vụ, nguyên tắc, tổ chức, hoạt động, nguồn lực, chế độ, chính sách, cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Trong đó, đã đưa ra nhiều quy định mới mang tính đột phá về tổ chức, hoạt động, nguồn lực, chế độ và chính sách, đặc biệt là các nội dung về khoa học công nghệ, sản xuất quốc phòng, an ninh, nhằm tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của công nghiệp quốc phòng, an ninh.

Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp đã tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các quy định pháp luật có liên quan, song việc triển khai thực thi trên thực tế vẫn đối mặt không ít khó khăn, thách thức, cả về cơ chế, chính sách, nguồn lực tài chính, khoa học công nghệ, nhân lực chất lượng cao, v.v. Vì thế, để Luật thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tối đa hiệu quả, các cấp, ngành, địa phương, đơn vị cần quán triệt, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, mang tính đột phá sau:

1. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật bảo đảm khả thi, đồng bộ và hiệu quả

Công nghiệp quốc phòng, an ninh là lĩnh vực đặc thù, liên quan trực tiếp đến bí mật nhà nước, an ninh quốc gia. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật dưới Luật là yếu tố then chốt quyết định đến chất lượng, hiệu quả triển khai thi hành. Thời gian qua, Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp và cơ quan chức năng quán triệt, triển khai khẩn trương, nghiêm túc Quyết định số 717/QĐ-TTg, ngày 27/7/2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục và phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết thi hành Luật; Quyết định số 936/QĐ-TTg, ngày 07/9/2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Đến nay, Bộ Quốc phòng đã hoàn thành soạn thảo, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, ban hành nhiều văn bản quan trọng hướng dẫn thi hành Luật, như: Nghị định số 99/2025/NĐ-CP, ngày 06/5/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; Nghị định số 103/2025/NĐ-CP, ngày 25/5/2025 của Chính phủ quy định một số chính sách đối với cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, cơ sở công nghiệp an ninh nòng cốt và chính sách đối với người lao động trong các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt, công nghiệp an ninh nòng cốt; Nghị định số 08/2025/NĐ-CP, ngày 28/5/2025 của Chính phủ quy định về hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ công nghiệp quốc phòng, an ninh; Nghị định số 09/2025/NĐ-CP, ngày 03/6/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp về quản lý nguồn lực tài chính cho công nghiệp quốc phòng, an ninh và Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh;… tạo cơ sở pháp lý cụ thể cho việc triển khai các quy định của Luật.

Phát huy kết quả đạt được, thời gian tới, Bộ Quốc phòng quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, sự chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình hình thực tiễn, tiếp tục rà soát, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật với những vấn đề mới phát sinh trong quá trình triển khai thi hành Luật. Nghiên cứu, xây dựng Chiến lược phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, v.v. Trong đó, có cơ chế để khơi thông mọi nguồn lực, tháo gỡ những “điểm nghẽn”, khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, tạo điều kiện xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng toàn diện, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất, khả thi. Tập trung nghiên cứu, cụ thể hóa rõ ràng các điều kiện, hình thức tham gia của cơ sở huy động, chức năng, nhiệm vụ, thành phần của tổ hợp công nghiệp quốc phòng, chính sách của Nhà nước đối với tổ hợp công nghiệp quốc phòng và quy định về xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ công nghiệp quốc phòng, v.v.

Bên cạnh đó, chỉ đạo cơ quan chức năng, trực tiếp là Cục Pháp chế/Bộ Quốc phòng và Tổng cục Công nghiệp quốc phòng, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội thường xuyên rà soát, tham mưu cho Bộ Quốc phòng kiến nghị, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, tránh chồng chéo hoặc mâu thuẫn với các luật khác, nhất là trong bối cảnh thực hiện chủ trương đột phá hoàn thiện thể chế trong giai đoạn hiện nay. Quan tâm nghiên cứu xây dựng các cơ chế đặc thù về tài chính, đầu tư và đất đai; cụ thể hóa các chính sách ưu đãi về đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, mở rộng năng lực sản xuất cho các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt; cơ chế đặc thù về tín dụng, thuế và hỗ trợ về đất đai cho các cơ sở công nghiệp quốc phòng, nhằm tạo môi trường thuận lợi nhất cho sự phát triển của ngành Công nghiệp quốc phòng.

2. Xây dựng chính sách đột phá thu hút nhân tài, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong công nghiệp quốc phòng, an ninh

Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố căn bản, quan trọng, xuyên suốt quyết định sự thành công của sự nghiệp phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh. Do đó, việc thực hiện nghiêm túc các quy định về chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao là một trong những vấn đề có ý nghĩa then chốt, cấp bách. Thực hiện vấn đề này, Bộ Quốc phòng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Đề án “Chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài đối với Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” theo Quyết định số 726/QĐ-TTg, ngày 08/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ. Chú trọng rà soát xây dựng, triển khai các đề án, kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, nhằm xây dựng nguồn nhân lực công nghiệp quốc phòng có chất lượng cao, số lượng, cơ cấu hợp lý. Xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu về công nghiệp quốc phòng; đẩy mạnh liên kết với các trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước để nâng cao chất lượng đào tạo. Đặc biệt, tiếp tục phát triển các chương trình bồi dưỡng chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, cán bộ nghiên cứu có năng lực chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu phát triển vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược. Ban hành các chính sách đặc thù để thu hút, tuyển dụng các nhà khoa học, kỹ sư giỏi, công nhân lành nghề vào làm việc trong ngành công nghiệp quốc phòng, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nền, công nghệ lõi.

Cùng với đó, chỉ đạo nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chế độ, chính sách, bảo đảm quyền lợi vật chất, tinh thần cho đội ngũ cán bộ, công nhân, người lao động trong các cơ sở công nghiệp quốc phòng; có chế độ đãi ngộ, trọng dụng thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, cán bộ khoa học có trình độ cao, chuyên gia đầu ngành, kỹ sư trưởng, tổng công trình sư, chuyên viên kỹ thuật giỏi và lực lượng tham gia các dự án, công trình, nhiệm vụ đặc biệt. Quan tâm tạo môi trường thuận lợi, điều kiện tốt nhất về phương tiện, trang thiết bị nghiên cứu để họ phát huy trí tuệ, tài năng, cống hiến nhiều nhất cho sự nghiệp xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng.

3. Đẩy mạnh đầu tư, nâng cao năng lực nghiên cứu, phát triển và làm chủ công nghệ nền, công nghệ lõi

Đây là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng, trực tiếp quyết định việc phát triển và tự chủ của nền công nghiệp quốc phòng. Thực hiện vấn đề này, Bộ Quốc phòng tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu xây dựng, giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng; kế hoạch động viên công nghiệp quốc gia; cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia theo Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 12/12/2024 của Bộ Chính trị (khóa XIII) phục vụ công nghiệp quốc phòng; quy định tiêu chí đối với chức danh chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng; danh mục công nghệ lưỡng dụng được ưu tiên đầu tư phát triển,… làm nền tảng triển khai thực hiện. Trong đó, ưu tiên đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn, như: trí tuệ nhân tạo, Big Data, công nghệ không gian, làm chủ vật liệu đặc chủng, vật liệu mới. Tham mưu xây dựng, hiện đại hóa các trung tâm nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ trọng điểm quốc gia về quốc phòng.

Để đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra, Bộ Quốc phòng tập trung tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước xây dựng các chương trình nghiên cứu cơ bản để phát triển công nghệ nền và công nghệ lõi. Có cơ chế đảm bảo kinh phí từ ngân sách nhà nước và các nguồn lực hợp pháp khác cho các chương trình, đề án, dự án nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược. Đẩy mạnh triển khai phát triển các tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao, lấy các cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt làm hạt nhân, liên kết với các tổ chức và doanh nghiệp dân sự có tiềm lực khoa học công nghệ mạnh. Xác định rõ mô hình tổ chức, mối quan hệ hợp tác, sứ mệnh và các nhiệm vụ trọng tâm cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trong xây dựng, phát triển các tổ hợp công nghiệp quốc phòng, nhằm tạo ra một hệ sinh thái nghiên cứu và sản xuất hiệu quả. Tiếp tục đề xuất Chính phủ cho phép áp dụng các cơ chế đặc biệt cho các nhiệm vụ khoa học công nghệ chiến lược. Trong đó, trao quyền cho phép ban chủ nhiệm chương trình, đề án, dự án chủ động, linh hoạt điều chỉnh nội dung nghiên cứu, phương án thực hiện và chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu. Đồng thời, ban hành các cơ chế đặc biệt phục vụ triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án chế tạo, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật, sản phẩm công nghiệp quốc phòng nói chung và vũ khí trang bị kỹ thuật chiến lược nói riêng, tăng cường sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang.

4. Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính

Xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh đòi hỏi sự đầu tư rất lớn về tài chính, khoa học công nghệ. Trong điều kiện hiện nay, để thực hiện có hiệu quả mục tiêu của Luật, cùng với ưu tiên bố trí nguồn ngân sách riêng đảm bảo ổn định, lâu dài, cần phải đa dạng hóa nguồn lực, tăng cường huy động nguồn vốn từ các doanh nghiệp và các nguồn vốn hợp pháp khác theo đúng quy định của pháp luật để đầu tư cho nhiệm vụ quan trọng này. Theo đó, Bộ Quốc phòng tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành cụ thể hóa các văn bản quy phạm pháp luật về việc thiết lập các cơ chế tài chính đặc thù cho các dự án nghiên cứu, sản xuất sản phẩm quốc phòng, bao gồm cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ, đấu thầu đặc biệt, bù đắp rủi ro cho doanh nghiệp; cơ chế khoán chi, cho phép thử nghiệm, sai số trong nghiên cứu, phát triển và có quỹ rủi ro cho các dự án công nghệ cao. Áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu đối với các sản phẩm, nguyên vật liệu phục vụ công nghiệp quốc phòng; ưu tiên về đất đai, cơ sở hạ tầng cho các cơ sở sản xuất chiến lược. Nâng cao tính minh bạch, hiệu quả trong quản lý, sử dụng Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh, đảm bảo nguồn lực được phân bổ đúng mục đích, ưu tiên cho các dự án trọng điểm, công nghệ cao và các nhiệm vụ cấp bách.

5. Thúc đẩy liên kết, hợp tác giữa công nghiệp quốc phòng, an ninh và dân sinh

Đây là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh tiên tiến, hiện đại, lưỡng dụng, phát huy tối đa tiềm lực quốc gia, phát triển đất nước. Bộ Quốc phòng tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành rà soát, đề xuất ban hành cơ chế thúc đẩy hợp tác, liên kết giữa công nghiệp quốc phòng với các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Theo đó, một mặt hoàn thiện cơ chế đặt hàng, ký kết hợp tác sản xuất, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực với các doanh nghiệp ngoài quốc phòng, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân có đủ năng lực, điều kiện tham gia các dự án công nghiệp quốc phòng trọng điểm. Có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài nhà nước, tham gia vào chuỗi cung ứng công nghiệp quốc phòng. Mặt khác, Bộ Quốc phòng tiếp tục nghiên cứu tạo cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng nòng cốt với các doanh nghiệp dân sinh trong nghiên cứu, sản xuất, chuyển giao công nghệ để tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, khuyến khích các cơ sở công nghiệp dân sinh đầu tư phát triển công nghệ lưỡng dụng, tham gia nghiên cứu, sản xuất sản phẩm phục vụ quốc phòng.

6. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế

Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, an ninh là một tất yếu khách quan nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để xây dựng và phát triển Ngành, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương, nhất là cơ sở công nghiệp quốc phòng nòng cốt cần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, ưu tiên hợp tác quốc tế về chuyển giao công nghệ để chế tạo, sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, như: vũ khí trang bị kỹ thuật, vật liệu mới, tác chiến không gian mạng, an ninh mạng, vũ trụ, vệ tinh, tàu quân sự, vũ khí dưới nước, phương tiện không người lái, ứng dụng AI và công nghệ lưỡng dụng.

Hợp tác quốc tế không chỉ là kênh tiếp cận công nghệ mà còn là cơ hội để nâng cao năng lực quản trị, chuẩn hóa quy trình sản xuất và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, thách thức nằm ở việc lựa chọn đối tác chiến lược và đàm phán các điều khoản chuyển giao công nghệ thực chất, tránh phụ thuộc công nghệ và đảm bảo an ninh quốc gia. Sự cân bằng giữa tự lực tự cường và hợp tác quốc tế là chìa khóa. Vì vậy, việc hợp tác, chuyển giao công nghệ phải luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết; tuyệt đối tuân thủ pháp luật về chuyển giao công nghệ, bản quyền sở hữu trí tuệ và các pháp luật liên quan; ưu tiên lựa chọn đối tác chuyển giao công nghệ lưỡng dụng, hiện đại. Ngoài ra, việc xuất khẩu được sản phẩm công nghiệp quốc phòng là yếu tố then chốt để tham gia chuỗi cũng ứng toàn cầu về vũ khí trang bị kỹ thuật, do vậy cần chú trọng thúc đẩy các chương trình hợp tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao với các quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng phát triển; tích cực tham gia các dự án nghiên cứu chung để học hỏi kinh nghiệm, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển; mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh và khẳng định vị thế của công nghiệp quốc phòng Việt Nam.

7. Xây dựng cơ chế động viên công nghiệp linh hoạt, hiệu quả

Để thực hiện hiệu quả quy định của Luật, Bộ Quốc phòng tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương rà soát, khảo sát, lựa chọn, lập danh mục và quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp đủ điều kiện động viên công nghiệp; xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp chi tiết, bao gồm các phương án sản xuất, sửa chữa trang bị, dự trữ vật tư, huấn luyện nhân lực. Đồng thời, quy định rõ quy trình, phương thức, trách nhiệm của các cấp, ngành và doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp, đảm bảo huy động tối đa tiềm lực công nghiệp quốc gia khi cần thiết, kịp thời chuyển sang sản xuất quốc phòng. Để nâng cao năng lực động viên công nghiệp, các bộ, ngành, địa phương cần quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp được giao nhiệm vụ động viên công nghiệp hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị theo yêu cầu kỹ thuật của quốc phòng. Đồng thời, thường xuyên tổ chức diễn tập động viên công nghiệp để kiểm tra, đánh giá và nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ của các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước, sẵn sàng huy động khi có tình huống.

Triển khai thực hiện nghiên túc, hiệu quả Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn quân, nhằm xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh hiện đại, tự chủ, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong kỷ nguyên mới.

Thượng tướng PHẠM HOÀI NAM, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

Ý kiến bạn đọc (0)

Thông báo Kết luận của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị sơ kết tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị
Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số vừa ban hành Thông báo số 07-TB/CQTTBCĐ, ngày 15/10/2025 về Kết luận của Tổng Bí thư Tô Lâm, Trưởng Ban Chỉ đạo tại Hội nghị sơ kết tình hình triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW trong quý III/2025 và giải pháp trọng tâm cuối năm 2025.