Sự kiện lịch sử Những ngày kỷ niệm lớn

QPTD -Thứ Năm, 05/12/2013, 16:41 (GMT+7)
Nghĩa cử cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Cam-pu-chia

Việt Nam và Cam-pu-chia là hai nước láng giềng, có nhiều điểm tương đồng. Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, quân đội và nhân dân hai nước đã kề vai, sát cánh chống kẻ thù chung, bảo vệ chủ quyền mỗi quốc gia, dân tộc. Điểm nhấn trong mối quan hệ đó là Quân tình nguyện Việt Nam đã giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, mang lại sự hồi sinh cho đất nước.

Quân tình nguyện Việt Nam rút về nước (năm 1989) trong tình cảm lưu luyến, biết ơn của người dân Cam-pu-chia.

Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, theo yêu cầu của Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia, Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam đã đưa Quân tình nguyện sang giúp nhân dân Cam-pu-chia. Đầu năm 1954, trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình cách mạng ba nước Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chủ trương đẩy mạnh tác chiến ở vùng Đông Bắc Cam-pu-chia để phối hợp với các chiến trường, nhất là chiến trường Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào. Theo đó, tháng 4-1954, Trung đoàn 101 (Đại đoàn 325) cùng với Đại đội 200 Quân tình nguyện Việt Nam ở Hạ Lào đã tiến xuống, phối hợp với các lực lượng vũ trang (LLVT) của Bạn ở Đông Bắc Cam-pu-chia, mở cuộc tiến công trên quy mô lớn, góp phần đánh bại chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Cam-pu-chia.

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Chính phủ Vương quốc Cam-pu-chia do Nô-rô-đôm Xi-ha-núc làm Thủ tướng (từ năm 1960 là Quốc vương) tuyên bố đi theo con đường hòa bình, độc lập, trung lập. Tuy nhiên, với ý đồ không để cho Cam-pu-chia thực hiện được mục tiêu đó, ngày 18-3-1970, đế quốc Mỹ hậu thuẫn Lon-non - Xi-rích - Ma-tắc –   những thành viên trong Chính phủ Vương quốc Cam-pu-chia – tiến hành đảo chính lật đổ Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc. Trước sự thay đổi nhanh chóng của tình hình, ngày 04-4-1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Điện số 99 cho Trung ương Cục miền Nam, yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường nghiên cứu tổ chức, bố trí lại lực lượng, đẩy mạnh tiến công ở miền Nam; đồng thời, giúp cách mạng Cam-pu-chia khắc phục khó khăn, phát triển một cách chủ động, vững chắc và lâu dài. Quán triệt chủ trương này và thể theo yêu cầu của Bạn, một số đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với LLVT cách mạng Cam-pu-chia tiến công địch, giải phóng nhiều vùng nông thôn thuộc các tỉnh Kra-chi-ê, Tà-keo và Cam-pốt. Trong năm 1970, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với Bạn đánh bại cuộc hành quân Chenla 1; năm 1971 mở Chiến dịch phản công Đông Bắc Cam-pu-chia và đánh bại cuộc hành quân Chenla 2. Với sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam, trong năm 1974, LLVT cách mạng Cam-pu-chia lần lượt bẻ gãy các cuộc hành quân Menben Rum Chây, Đenta 28, Rôlut Xiêm Riệp của địch, sau đó bao vây Phnôm-Pênh. Ngày 17-4-1975, quân giải phóng Cam-pu-chia tiến công làm chủ hoàn toàn Thủ đô Phnôm-Pênh, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên đất Bạn. Như vậy, trong những năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xuất phát từ nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc và theo yêu cầu của Bạn, Quân tình nguyện Việt Nam đã thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế cao cả, đoàn kết chiến đấu với quân và dân Cam-pu-chia chống kẻ thù chung, giành độc lập dân tộc ở mỗi nước. Trên chặng đường đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ ấy, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của Quân tình nguyện Việt Nam luôn được tỏa sáng. Điều đó không chỉ góp phần giúp nhân dân Cam-pu-chia hoàn thành sứ mệnh đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn tác động trực tiếp đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như các dân tộc khác trên thế giới, nhân dân Cam-pu-chia luôn ước vọng được sống trong hòa bình, hòa hợp dân tộc và cùng nhau xây dựng, phát triển đất nước. Thế nhưng, lực lượng Khơ-me đỏ, do Pôn Pôt – Iêng-Xary cầm đầu, đã chà đạp lên nguyện vọng chính đáng đó và thành quả cách mạng của nhân dân Cam-pu-chia đã bị lợi dụng, chiếm đoạt. Sau khi nắm quyền, với chủ trương xây dựng cái gọi là “chủ nghĩa cộng sản độc đáo kiểu Cam-pu-chia”, Tập đoàn Pôn Pôt – Iêng-Xary đã tiến hành phá hủy cơ sở kinh tế, xã hội, gây ra nạn diệt chủng có một không hai trong lịch sử Cam-pu-chia và thế giới. Không chỉ gây tai họa đối với nhân dân Cam-pu-chia, ngay sau ngày Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, chúng đã trắng trợn đưa quân xâm lược Việt Nam. Trước tình hình đó, ngày 06 và 07-12-1978, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Việt Nam thông qua quyết tâm mở cuộc tổng tiến công tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên tuyến biên giới Tây Nam Tổ quốc; đồng thời, sẵn sàng phương án hỗ trợ các LLVT yêu nước Cam-pu-chia nổi dậy đánh đổ Tập đoàn Pôn Pôt – Iêng-Xary, giành chính quyền về tay nhân dân. Theo đó, từ ngày 23 đến 31-12-1978, bằng các đòn phản công, tiến công quyết liệt, quân và dân Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh đuổi quân Pôn Pôt, thu hồi toàn bộ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng và nhân dân Cam-pu-chia đánh đổ chế độ diệt chủng, xây dựng lại đất nước.

Ngay sau khi quân và dân Việt Nam bắt đầu mở cuộc phản công đánh đuổi quân Pôn Pôt, ngày 23-12-1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia nhận định: “Sinh lực địch nhất định sẽ bị quân và dân Việt Nam tiêu diệt hoặc kìm chân tại chỗ. Đây là thời cơ tốt nhất để các LLVT cách mạng đoàn kết cứu nước Cam-pu-chia cùng với nhân dân và binh sĩ khởi nghĩa trên toàn quốc và đánh vào đầu não của bè lũ Pôn Pôt – Iêng-Xary, đập tan chế độ độc tài phát xít khát máu của chúng”1. Tiếp đó, ngày 26-12-1978, Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia đã phát động toàn dân tận dụng thời cơ và sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam, tập trung lực lượng đứng lên đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pôt – Iêng-Xary, giành chính quyền về tay nhân dân; đồng thời, đề nghị Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Việt Nam giúp đỡ nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng. Đáp lại đề nghị đó, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, tiếp tục sát cánh chiến đấu cùng với nhân dân Cam-pu-chia, đem lại thắng lợi to lớn, đánh đổ chế độ bạo ngược của Pôn Pôt. Ngày 07-01-1979, Thủ đô Phnôm-Pênh được giải phóng2. Ngày 08-01-1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Cam-pu-chia được thành lập, do ông Hêng Xom-rin làm Chủ tịch đã ra tuyên bố xóa bỏ hoàn toàn chế độ diệt chủng của Pôn Pôt – Iêng-Xary, thành lập chế độ Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia. Như vậy, sự giúp đỡ hào hiệp, vô tư của Việt Nam, trực tiếp là các đơn vị Quân tình nguyện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với dân tộc Cam-pu-chia trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ diệt chủng tàn bạo, cứu nguy cho đất nước Bạn khỏi họa diệt chủng. Xúc động về nghĩa cử cao đẹp của bộ đội Việt Nam, người dân ở tỉnh Bát-đam-boong, Cam-pu-chia nói: “Chúng tôi theo đạo Phật, ngày đêm cầu trời khấn Phật cứu giúp, nhưng ngày này qua ngày khác không thấy ai đến. Chúng tôi nghĩ trên cõi đời này chỉ có Việt Nam có thể cứu chúng tôi. Quả nhiên bộ đội Việt Nam đã đến”3.

Sau ngày 07-01-1979, các lực lượng quân sự của Pôn Pôt còn khá lớn. Chúng rút chạy về vùng biên giới phía Tây, Tây Bắc và ẩn náu ở một số khu rừng, núi trong nội địa Cam-pu-chia. Pôn Pôt đã trốn chạy ra nước ngoài, nhưng vẫn tiếp tục chỉ đạo lực lượng Khơ-me đỏ chống phá chính quyền và nhân dân Cam-pu-chia. Với sự giúp đỡ của bên ngoài và dựa vào những căn cứ ở phía Tây Cam-pu-chia, chúng tập hợp lực lượng đưa vào nội địa tổ chức quấy rối, tiêu hao lực lượng cách mạng. Cùng với các hoạt động quân sự, Pôn Pôt – Iêng-Xary ra sức đẩy mạnh các hoạt động chính trị, ngoại giao, hòng tạo sức ép đẩy lực lượng Việt Nam ra khỏi Cam-pu-chia, trong lúc lực lượng của Bạn còn non yếu, với hy vọng phản công chiếm lại Thủ đô Phnôm-Pênh và lập lại chính quyền phản cách mạng. Vấn đề đặt ra lúc này là, Quân tình nguyện Việt Nam nên rút về nước hay ở lại giúp Bạn thêm một thời gian? Căn cứ vào thực tế, lãnh đạo Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia và Chính phủ Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia chính thức yêu cầu Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ở lại. Trước tình hình đó, “Đảng ta có quyết định rất đúng đắn để lại một bộ phận lớn Quân tình nguyện trong một thời gian để giúp bạn. Đó là vì lợi ích sống còn của nhân dân ta cũng như lợi ích sống còn của nhân dân bạn, là sự kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế”4.

Để tăng cường hơn nữa tình đoàn kết gắn bó giữa hai nước, ngày 18-02-1979, tại Phnôm-Pênh đã diễn ra Lễ ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia. Hai bên khẳng định tiếp tục tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, sự hợp tác hữu nghị lâu dài và sự giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt để củng cố nền độc lập, xây dựng đất nước phồn vinh và cuộc sống hạnh phúc của nhân dân mỗi nước. Việc Quân tình nguyện Việt Nam ở lại giúp cách mạng Cam-pu-chia trong tình hình mới là sự tiếp tục kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế. Trải qua một thập kỷ thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Cam-pu-chia (1979 - 1989), với nghĩa cử cao đẹp của mình, Quân tình nguyện Việt Nam đã vận dụng sáng tạo đường lối, nguyên tắc giúp bạn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là phương châm “giúp bạn là tự giúp mình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; không quản ngại hy sinh, gian khổ, cùng quân và dân Cam-pu-chia đánh đổ bè lũ Pôn Pôt – Iêng-Xary, đưa dân tộc Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Với thắng lợi đó, Quân tình nguyện Việt Nam đã làm nên một kỳ tích trong lịch sử quan hệ truyền thống giữa hai nước; tô thắm thêm bản chất của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam đã mang lại kết quả: Một là, cùng quân và dân Cam-pu-chia từng bước đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn quân sự của địch nhằm khôi phục chế độ diệt chủng ở Cam-pu-chia. Hai là, giúp nhân dân Cam-pu-chia khôi phục kinh tế, ổn định đời sống, đất nước hồi sinh và phát triển. Ba là, giúp Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia xây dựng LLVT, xây dựng chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể, đủ sức vươn lên từng bước tự đảm đương nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước của mình.

Quá trình giúp cách mạng Cam-pu-chia, Quân tình nguyện Việt Nam luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền và các quyết định của Bạn; nắm vững đường lối, chính sách, nhất là đã cùng Bạn thực hiện ba mục tiêu chiến lược của cách mạng do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia đề ra. Đồng thời, phát huy cao độ bản chất, truyền thống của “Bộ đội Cụ Hồ”- một đội quân chiến đấu, đội quân công tác, luôn gắn bó mật thiết với quân đội và nhân dân nước Bạn; không quản ngại khó khăn, luôn bám địa bàn, bám cơ sở để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Ở nhiều địa phương trên đất Bạn, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam còn giúp nhân dân xây dựng nếp sống sinh hoạt văn hóa tiến bộ, áp dụng kỹ thuật thâm canh tăng năng suất lúa, bỏ dần tập quán canh tác lạc hậu và xây dựng những công trình lưu niệm có ý nghĩa kinh tế, văn hóa, xã hội để lại cho nhân dân và chính quyền địa phương, góp phần làm thay đổi bộ mặt Cam-pu-chia trong thời đoạn khó khăn nhất của công cuộc hồi sinh đất nước. Dù quân Pôn Pốt đã giết hại đồng bào ta hết sức dã man, nhưng Quân tình nguyện Việt Nam không có bất cứ hành động trả thù nào đối với tù, hàng binh; ngược lại, các đối tượng đó còn được đối xử nhân đạo. Việc làm này khiến người dân Cam-pu-chia - vốn hết sức căm thù quân Pôn Pôt - rất đỗi ngạc nhiên và có lúc không đồng tình. Tuy nhiên, tính nhân văn trong từng cử chỉ, hành động của bộ đội Việt Nam đã giúp nhân dân Cam-pu-chia hiểu rõ nghĩa cử cao đẹp và tính chất chính nghĩa của “Bộ đội Cụ Hồ” trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Cam-pu-chia.

Trên đà thắng lợi và trưởng thành của cách mạng Cam-pu-chia, chấp hành Chỉ thị của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 26-5-1988, Bộ Quốc phòng ra Thông báo về việc rút hết Quân tình nguyện Việt Nam khỏi Cam-pu-chia trong năm 19895. Nhân dịp Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện (Bộ Tư lệnh 719) và Đoàn chuyên gia quân sự Việt Nam (Đoàn 478) chuẩn bị thực hiện đợt đầu của kế hoạch rút quân năm 1988, ngày 29-6-1988, tại Phnôm-Pênh, Hội đồng toàn quốc Mặt trận đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Cam-pu-chia tổ chức trọng thể Lễ trao tặng Huân chương Ăng-co cho Bộ Tư lệnh 719 và Đoàn 478. Thay mặt Đảng, Nhà nước Cam-pu-chia, đồng chí Chia-Xim, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Cam-pu-chia đã ghi nhận và biểu dương công lao to lớn của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ đất nước của nhân dân Cam-pu-chia; đồng thời nhấn mạnh: Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân Cam-pu-chia mãi mãi khắc sâu tinh thần quốc tế cao cả của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam trong việc giúp đỡ quân đội và nhân dân Cam-pu-chia hồi sinh, bảo vệ và xây dựng đất nước.

Ngày 30-6-1988, Lễ tiễn Bộ Tư lệnh 719 về nước diễn ra trọng thể tại sân bay Phnôm-Pênh. Nhân ngày này, báo Prochiachuôn (Nhân dân) - cơ quan ngôn luận của Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia đã viết: “Trong những năm cực kỳ bi thảm dưới chế độ diệt chủng Pôn Pôt, trên thế giới này không biết bao nhiêu là kẻ mạnh, kẻ giàu, nhưng duy nhất chỉ có người bạn láng giềng nghèo Việt Nam đến cứu sống dân tộc chúng ta mà thôi”6. Thực tế đó chỉ rõ, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, với phương châm chiến lược “giúp bạn là tự giúp mình” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trên tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, Quân tình nguyện Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ của mình. Thành tựu to lớn mà Quân tình nguyện Việt Nam đạt được trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Cam-pu-chia cũng như những bài học kinh nghiệm để lại đã ghi thêm dấu ấn sâu sắc về bản chất cách mạng và truyền thống đoàn kết quốc tế cao cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần tô thắm tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước.

Trong tình hình mới, những bài học kinh nghiệm lịch sử được đúc kết, những nghĩa cử cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Cam-pu-chia sẽ tiếp tục được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam phát huy, tô thắm thêm truyền thống hữu nghị giữa hai nước, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch chia rẽ tình đoàn kết Việt Nam – Cam-pu-chia, xứng đáng với lịch sử hào hùng mà hai dân tộc đã trải qua.

Thiếu tướng, PGS, TS. VŨ QUANG ĐẠO

Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
___________________

1 - Tuyên bố của Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia -. Báo Nhân dân, số 8930, ngày 08-01-1979.
2 - Đến ngày 17-01-1979, tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn trên đất nước Cam-pu-chia được giải phóng khỏi chế độ diệt chủng.
3 - Bộ Quốc phòng - Quân đội nhân dân Việt Nam với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb QĐND, H. 2004, tr.146.
4 - Quân đội nhân dân Việt Nam 65 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Nxb CTQG, H. 2009, tr.137.
5 - Việc rút Quân tình nguyện diễn ra sớm hơn một năm so với thỏa thuận tháng 8-1985 giữa Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia và Cộng hòa XHCN Việt Nam.
6 - Bộ Quốc phòng - Quân đội nhân dân Việt Nam với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nxb QĐND, H. 2004, tr. 160 - 161.

Ý kiến bạn đọc (0)

Báo chí cách mạng Việt Nam đổi mới, kiến tạo, góp phần đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí cách mạng Việt Nam đã và đang có bước phát triển mạnh mẽ, là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của Nhân dân. Nghề làm báo là nghề cao quý, thiêng liêng, mỗi nhà báo cần rèn luyện, phấn đấu để nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức để thực sự là những chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của Đảng.