QPTD -Chủ Nhật, 04/12/2011, 03:15 (GMT+7)
Xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO
Gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là nấc thang mới của quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam; là cơ hội để chúng ta tranh thủ các nguồn lực cho phát triển kinh tế nói chung, xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự (TLKTQS) nói riêng. Cả cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế nước ta khi đã là thành viên WTO, đều đặt ra những vấn đề mới trong xây dựng TLKTQS. ở phạm vi bài viết này, xin được nêu ba vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, cần khai thác tối đa mọi lợi thế của thành viên WTO để phát triển kinh tế, làm cơ sở xây dựng TLKTQS mạnh. Là thành viên của WTO, Việt Nam quan hệ song phương với những nền kinh tế lớn của thế giới; chúng ta được hưởng những ưu đãi đối với nước thành viên đang phát triển. Là nước đi sau, chúng ta có điều kiện học hỏi, rút kinh nghiệm từ các nước đi trước để phát triển kinh tế, vận dụng vào xây dựng TLKTQS.

Trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO, cùng với việc mở rộng thị trường, tăng cường cạnh tranh, các rào cản thuế quan bị dỡ bỏ, doanh nghiệp nước ngoài đầu tư ngày càng nhiều vào Việt Nam. Trong khi cả nước có tới 7.736 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực, nhưng tổng số vốn chỉ ở mức trên 70 tỉ USD, nhưng từ khi trở thành thành viên WTO đến nay, đã có khoảng 50 dự án mới (nguồn vốn FDI) với tổng vốn lên tới trên 50 tỉ USD đang được xúc tiến vào Việt Nam. Mức vốn bình quân mỗi dự án như vậy là rất lớn so với trước đây. Với lượng vốn đầu tư này, nếu chúng ta định hướng tốt thì đây sẽ là một điều kiện rất cơ bản để phát triển kinh tế, xây dựng nền tảng để tăng cường TLKTQS.
Theo các cam kết, Việt Nam được hưởng ưu đãi trong thương mại, dịch vụ, đầu tư của các thành viên, thông qua chế độ “tối huệ quốc” (MFN) và chế độ  “đối xử quốc gia” (NT), tránh được tình trạng phân biệt đối xử. Là nước đang phát triển, Việt Nam được hưởng những ưu đãi riêng về miễn trừ, ân hạn trong việc tiếp cận thị trường để bán các sản phẩm của mình; đồng thời, mở rộng thị trường xuất khẩu sang 150 thành viên, với các hàng rào thương mại ngày càng hạ thấp, nhất là đối với các mặt hàng được ưu đãi mà ta có thế mạnh… Tuy nhiên, trong quá trình đó, để xây dựng và phát triển TLKTQS mạnh, chúng ta phải có các chính sách đúng đắn, phù hợp, nhằm khai thác tối đa mọi lợi thế do WTO đưa lại. Trong khi luật lệ của WTO không bắt buộc các nhà đầu tư phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với việc tăng cường tiềm lực quân sự cho các nước sở tại; hơn nữa, với đặc thù của kinh tế quân sự, chúng ta không chờ đợi sự đầu tư nước ngoài tập trung vào lĩnh vực này. Song, Đảng và Nhà nước cần có chủ trương, biện pháp đúng đắn tận dụng được mọi nguồn lực, khai thác tối đa các lợi thế của thành viên WTO đưa lại, nhằm tăng cường TLKTQS của đất nước. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khi đầu tư sản xuất, kinh doanh đều đặt vấn đề lợi nhuận và hiệu quả cạnh tranh lên trên hết; nên họ chỉ tập trung vào các lĩnh vực hội đủ các yếu tố đó, chứ không dễ dàng chấp nhận sự chi phối cho lợi ích quốc phòng, quân sự. Bởi vậy, vấn đề đặt ra ở đây là, cần giải quyết mối quan hệ giữa phát triển tiềm lực kinh tế của đất nước với phát triển TLKTQS, tức là Nhà nước phải có một cơ chế điều hoà, nhằm huy động được năng lực của các lĩnh vực kinh tế khác cho xây dựng và phát triển TLKTQS. Phải bằng mọi cách tận dụng mọi nguồn lực, như vốn, khoa học, công nghệ, trình độ quản lý, thị trường để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước, đặc biệt là các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành mang tính lưỡng dụng cao; các ngành thuộc kết cấu hạ tầng, các ngành kinh tế được chuẩn bị động viên... tạo tiềm lực kinh tế mạnh của đất nước làm cơ sở cho phát triển TLKTQS. Có các chính sách điều tiết sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền; đặc biệt, cần quan tâm phát triển kinh tế ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo; đầu tư thoả đáng cho các khu kinh tế - quốc phòng, tạo ra khả năng huy động cơ sở vật chất, kỹ thuật tại chỗ, vừa đáp ứng yêu cầu của quốc phòng-an ninh (QP-AN), vừa làm tiền đề, điều kiện thuận lợi cho xây dựng TLKTQS.
Thứ hai, có các chủ trương, biện pháp thích hợp phát triển nhanh ngành Công nghiệp Quốc phòng (CNQP) - một bộ phận quan trọng của TLKTQS. CNQP gồm ba bộ phận: nòng cốt, mở rộng và động viên; với nhiệm vụ cụ thể khác nhau, chúng đảm bảo các nhu cầu hoạt động của lực lượng vũ trang. Mặc dù CNQP không trực tiếp tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội, nhưng nó luôn được duy trì, phát triển để đáp ứng yêu cầu hoạt động thường xuyên của QP - AN. Trong các cam kết, những sản phẩm cốt lõi nhất của CNQP (vũ khí, trang bị kỹ thuật và công nghệ quân sự…) không nằm trong sự điều chỉnh của định chế pháp lý của WTO, nhưng vẫn chịu sự tác động không nhỏ của các điều khoản đó. Sản xuất quân sự liên quan chặt chẽ đến những vấn đề chính trị đối ngoại nhạy cảm, nên xu hướng chung là các quốc gia đều giữ bí mật và hạn chế việc mở rộng đối ngoại kinh tế quân sự và công nghệ quân sự. Chính Liên hợp quốc cũng chỉ chấp nhận ở mức khiêm tốn việc minh bạch hoá các số liệu liên quan tới vũ khí, trang bị quân sự và CNQP. Tham gia vào WTO, CNQP nước ta chịu tác động từ hai hướng. Một là, những tiêu chí của WTO thúc đẩy tự do thương mại và việc gia tăng thương mại quốc tế sẽ ảnh hưởng nhất định tới kích cầu nội địa về hàng hóa - dịch vụ, và chính sự phát triển của các ngành kinh tế khác, do các cam kết WTO đưa lại, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến CNQP. Hai là, những cạnh tranh trên thị trường quốc tế về vũ khí, công nghệ quân sự về cơ bản nằm ngoài những quy định của WTO, nhưng do việc xây dựng và phát triển CNQP là việc làm bắt buộc và CNQP là một bộ phận của nền công nghiệp quốc gia, hơn nữa lại là bộ phận cấu thành của nền kinh tế, vì vậy, những chấn động của công nghiệp quốc gia và các ngành kinh tế khác do tác động của các định chế WTO sẽ là những thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của CNQP. Những khó khăn về hợp tác, gọi vốn đầu tư nước ngoài, không thể tự do hoá thương mại như trong lĩnh vực dân sự, đã nói lên điều đó.  
Trong thời gian tới, để phát triển CNQP đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong điều kiện nước ta là thành viên WTO, cần chú ý một số nội dung cơ bản sau. Một là, trên cơ sở các quan điểm, mục tiêu về xây dựng và phát triển CNQP theo tinh thần Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị (khoá IX), cần xây dựng chiến lược phát triển CNQP theo hướng khai thác tối đa mọi nguồn lực do WTO đưa lại để phát triển đồng bộ cả ba bộ phận cấu thành CNQP. Trong đó, cần tính đến phát triển nhanh bộ phận CNQP mở rộng và CNQP động viên. Hai là, để góp phần khắc phục nguy cơ tụt hậu ngay tại “sân nhà” của các doanh nghiệp, phải thúc đẩy phát triển bộ phận CNQP nòng cốt, trong đó đẩy nhanh quá trình hợp tác, liên kết, hoà nhập CNQP vào nền công nghiệp quốc gia một cách hiệu quả; điều chỉnh cơ cấu ngành, vùng của bộ phận nòng cốt, nhằm khắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay và phù hợp với điều kiện của một nền kinh tế thành viên WTO. Ba là, tìm cách tăng cường mở rộng các hoạt động hội nhập quốc tế của CNQP. Là thành viên WTO, việc tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CNQP bị hạn chế bởi các chế tài pháp lý WTO. Song không vì thế mà chúng ta không mở rộng hoạt động hội nhập quốc tế. Cần tiếp tục quan hệ với các đối tác truyền thống như các quốc gia trong cộng đồng SNG; chủ động tiếp cận thị trường quốc tế về vũ khí, công nghệ quân sự, tìm hiểu các mô hình hợp tác đa phương phù hợp với thực tiễn và điều kiện của ta; tổng kết kinh nghiệm của các mô hình thí điểm liên doanh để nhân rộng; tìm cách thu hút và khuyến khích các cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, trên cơ sở tham gia xây dựng và phát triển nền công nghiệp của đất nước và phát triển CNQP. Bốn là, trên cơ sở Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị và điều kiện quốc tế sau khi gia nhập WTO, cần tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh cơ chế quản lý, các chế độ, chính sách của Nhà nước nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thu hút các nguồn lực khoa học, công nghệ, vốn đầu tư cho phát triển CNQP; có cơ chế, chính sách cụ thể nhằm huy động sự tham gia của các cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế phục vụ cho phát triển CNQP.
Thứ ba, có chính sách thu hút và huy động được nguồn lực từ  khu vực kinh tế tư nhân, kể cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, góp phần xây dựng và phát triển TLKTQS của đất nước. Hoà bình và ổn định luôn là điều kiện cơ bản nhất để phát triển kinh tế; nhưng chính sự phát triển của kinh tế lại là cơ sở để tăng cường khả năng bảo vệ hoà bình của đất nước. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ của mọi quốc gia trên thế giới cũng như đối với nước ta. Ngày nay, khi chiến tranh đã lùi xa, chúng ta đã là thành viên WTO, nhưng một trong những yếu tố để các doanh nghiệp và cá nhân quyết định đầu tư sản xuất, kinh doanh vẫn là môi trường hoà bình, ổn định; và để giữ vững được hoà bình, ổn định, ai cũng hiểu rằng, Nhà nước phải có chính sách thích hợp để tăng cường khả năng quốc phòng của đất nước. Trong điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Đảng, Nhà nước cần có chính sách nhằm thu hút và huy động được các nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế, kể cả khu vực kinh tế tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, góp phần xây dựng TLKTQS mạnh. Nghiên cứu và ban hành các quy định cụ thể về nghĩa vụ và quyền lợi của các thành phần kinh tế đối với quốc phòng và an ninh đất nước. Có cơ chế huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân, cũng như các doanh nghiệp trong củng cố, tăng cường TLKTQS. Phải nghiêm túc nhìn nhận rằng, cho đến nay chúng ta chưa làm được nhiều trong việc thu hút, huy động các nguồn lực trong khu vực này cho củng cố quốc phòng và an ninh của đất nước. Đặc biệt, đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, đến nay, ngoài phần thu từ thuế, chúng ta chưa huy động được gì cho việc tăng cường TLKTQS của đất nước. Ngay “Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên”, chúng ta không đưa các doanh nghiệp FDI vào diện huy động các nguồn lực vật chất, khi tình huống đặt ra. Trong khi đó, các doanh nghiệp này là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với các ngành, các lĩnh vực và thành phần kinh tế khác. Thời gian tới, cần đẩy nhanh quá trình đổi mới thể chế và hoạt động động viên kinh tế, đặc biệt là động viên công nghiệp. Cần nghiên cứu thay thế “Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên” bằng luật và đưa vào luật nội dung huy động các nguồn lực của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phục vụ nhu cầu xây dựng và phát triển TLKTQS. Việc xây dựng và ban hành Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản của tổ chức và cá nhân, theo chúng tôi, cần đặc biệt chú ý khía cạnh phục vụ cho nhiệm vụ QP - AN trong những tình trạng khẩn cấp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn FDI.
Xây dựng và phát triển TLKTQS trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề phải quan tâm. Những vấn đề nêu trên chỉ là những nghiên cứu ban đầu với mong muốn góp phần gợi mở một số nội dung trong xây dựng và phát triển TLKTQS của đất nước, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
Đại tá, PGS,TS. Lại Ngọc Hải
 

Ý kiến bạn đọc (0)