Thứ Năm, 30/10/2025, 11:30 (GMT+7)
Ấn phẩm tạp chí in
Viện Tự động hóa kỹ thuật quân sự (KTQS) là đơn vị nghiên cứu chuyên ngành công nghệ cao, trực thuộc Viện Khoa học-Công nghệ Quân sự (CNQS), Bộ Quốc phòng. Với chức năng nghiên cứu khoa học kỹ thuật (KHKT) và ứng dụng công nghệ tự động hóa phục vụ quốc phòng, an ninh và kinh tế-xã hội, nên Viện có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Nhiệm vụ của Viện bao gồm nhiều nội dung, trên nhiều lĩnh vực và mang tính đặc thù; trọng tâm là nghiên cứu KHKT-CNQS trong lĩnh vực tự động hóa; ứng dụng các thành tựu mới về công nghệ tự động hóa vào cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật phục vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và sản xuất quốc phòng; đồng thời, tham gia xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học công nghệ (KHCN) của đất nước, đào tạo nguồn nhân lực cho các học viện, nhà trường quân đội và tổ chức hợp tác, chuyển giao công nghệ với các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nước...
Khi mới thành lập, Viện gặp rất nhiều khó khăn cả về tổ chức biên chế và cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là về trang bị, phương tiện nghiên cứu, nguồn nhân lực, trình độ quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều bất cập... Xác định rõ nhiệm vụ, chủ động khắc phục khó khăn, Đảng ủy, chỉ huy Viện đã thường xuyên quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết về công tác KHCN của Đảng, Nhà nước và quân đội, trực tiếp là các nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương và của Viện Khoa học-CNQS. Trên cơ sở đó, kịp thời đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo phù hợp; triển khai toàn diện các mặt công tác, tạo chuyển biến đồng bộ trên tất cả các mặt. Những năm qua, được sự quan tâm giúp đỡ của trên, cộng với sự nỗ lực của tập thể cán bộ, đảng viên trong đơn vị, Viện đã thực hiện thành công hơn 60 chương trình, dự án, đề tài KHCN cấp Nhà nước, cấp Bộ Quốc phòng cùng hàng trăm đề tài áp dụng KHKT cho các quân chủng, binh chủng và phục vụ các lĩnh vực khác. Hầu hết các đề tài đều được Hội đồng nghiệm thu các cấp đánh giá xuất sắc, được khen thưởng và được áp dụng vào thực tiễn (lĩnh vực quốc phòng và kinh tế-xã hội). Nổi bật là, công trình viễn ấn báo Quân đội nhân dân, báo Nhân dân tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu bức thiết hiện đại hóa ngành Báo chí của Đảng, Nhà nước và Quân đội; đề tài KC.02.03 do Viện chủ trì nghiên cứu đã được ứng dụng đạt hiệu quả cao trong quốc phòng và kinh tế, được Bộ KHCN, Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trao tặng giải thưởng sáng tạo KHCN Việt Nam (VIFOTECH). Điều đáng nói là nhiều kết quả nghiên cứu, nhiều thiết bị, máy móc và hệ thống do Viện nghiên cứu, chế tạo ra là trên nền các công nghệ cao, hiện đại như: công nghệ nhúng, ASIC, FPGA, SCADA..., có tính năng kỹ thuật tương đương với các sản phẩm cùng loại do các nước tiên tiến sản xuất, nhưng giá thành chỉ bằng 20% giá nhập ngoại. Những kết quả đó đã góp phần quan trọng để hiện đại hóa quân đội và phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Với những thành tích xuất sắc trong nghiên cứu khoa học, Viện đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Bên cạnh công tác nghiên cứu khoa học, Viện luôn quan tâm củng cố, xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt, trước hết là vững mạnh về chính trị và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Hệ thống tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy các cấp thường xuyên được củng cố, kiện toàn. Đội ngũ cán bộ từng bước được chuẩn hóa, có chất lượng chính trị và trình độ chuyên môn cao, năng lực thực tiễn tốt. Cơ sở vật chất, phương tiện nghiên cứu ngày càng được tăng cường theo hướng hiện đại, tiên tiến, đồng bộ. Nội bộ Viện luôn ổn định, tạo được sự đoàn kết, thống nhất cao; các hoạt động đi vào nền nếp, chính quy; môi trường văn hóa lành mạnh... Đây là những tiền đề cơ bản để Viện tiếp tục hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Thời gian tới, yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội đòi hỏi Viện phải không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu, thử nghiệm, chuyển giao công nghệ..., ứng dụng những tiến bộ KHCN vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Theo tinh thần đó, Viện tập trung vào những nội dung cơ bản sau.
1. Thường xuyên coi trọng xây dựng Viện vững mạnh về chính trị. Đây là vấn đề cơ bản, xuyên suốt và là nền tảng để nâng cao chất lượng tổng hợp của đơn vị. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, trước tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường và hiện tượng chảy máu “chất xám” ở các cơ quan, đơn vị, việc xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị càng có ý nghĩa sâu sắc, góp phần quan trọng để Viện hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Với nhận thức đó, Đảng ủy và chỉ huy Viện luôn coi trọng việc quán triệt các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội VIII Đảng bộ Quân đội và các nghị quyết chuyên đề về KHKT-CNQS trong thời kỳ mới. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức cho mọi quân nhân trong đơn vị về tình hình, nhiệm vụ của quân đội, nhiệm vụ của Viện Khoa học-CNQS và nhiệm vụ của đơn vị; về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động KHCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cũng chú trọng đi sâu làm rõ các nội dung trong lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tự động hóa và những yêu cầu đặt ra đối với Viện; từ đó vận dụng vào các mặt công tác cụ thể của từng đơn vị và chức trách, nhiệm vụ được giao của từng cá nhân. Thông qua giáo dục cũng làm cho mọi quân nhân, công nhân viên quốc phòng, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, cán bộ KHKT-CNQS rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; phát huy truyền thống “Chủ động-sáng tạo-đoàn kết”, say mê lao động sáng tạo, quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Để nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, một nội dung quan trọng được Đảng ủy và chỉ huy Viện hết sức quan tâm là thường xuyên chăm lo củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng và quần chúng trong đơn vị, trước hết là nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, phát huy vai trò đội ngũ cán bộ, đảng viên, trọng tâm là cấp ủy cơ sở và các chi bộ nghiên cứu khoa học. Điều đó được thể hiện nhất quán, thống nhất trong các chủ trương, biện pháp thực hiện: gắn xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh (TSVM) với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; gắn việc đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên với mức độ hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Đến nay, toàn Đảng bộ có 100% tổ chức đảng đạt TSVM, 100% cấp ủy TSVM.
2. Tiếp tục nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tạo ra những sản phẩm công nghệ cao, phục vụ thiết thực sự nghiệp củng cố quốc phòng- an ninh và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Đặc thù của ngành Tự động hóa thuộc lĩnh vực kỹ thuật công nghệ cao, khả năng liên kết và ứng dụng rộng rãi, đòi hỏi sự kết tinh hàm lượng trí tuệ cao, phương tiện nghiên cứu tiên tiến và cấp độ bảo mật lớn; trong khi đó, khả năng nghiên cứu, ứng dụng của Viện trong lĩnh vực này còn nhiều khó khăn cả về cơ sở vật chất, trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ và cơ chế, chính sách thực hiện. Vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học, Viện chú trọng đẩy mạnh nghiên cứu theo hướng: kết hợp nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng; lấy nghiên cứu ứng dụng làm trọng tâm, trên cơ sở đẩy mạnh nghiên cứu phát triển và nghiên cứu nền; chủ động đề xuất và triển khai các hướng nghiên cứu gắn với công nghệ tự động hóa và các công nghệ cao “mũi nhọn” khác, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm KHCN có giá trị và chất lượng cao để trang bị và ứng dụng rộng rãi cả trong quốc phòng-an ninh và kinh tế-xã hội. Để làm được điều đó, Viện tiếp tục chỉ đạo các đơn vị bám sát thực tiễn, nhất là thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và sản xuất quốc phòng ở đơn vị cơ sở; lấy đòi hỏi của thực tiễn làm mục đích nghiên cứu, lấy yêu cầu nhiệm vụ chính trị, yêu cầu hiện đại hóa quân đội làm cơ sở để xây dựng các định hướng, kế hoạch nghiên cứu cụ thể cho từng năm và từng giai đoạn. Theo đó, các dự án, đề tài nghiên cứu phải xác định rõ mục tiêu, nội dung, biện pháp cụ thể, hạn chế thấp nhất những dự án, đề tài kém hiệu quả, tính thực tiễn thấp, không phục vụ đúng cho công tác kỹ thuật và sản xuất quốc phòng trong tiến trình hiện đại hóa quân đội và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Quá trình nghiên cứu phải tích cực đổi mới phương pháp, đa dạng hóa cách tiếp cận vấn đề; gắn kết chặt chẽ khoa học với công nghệ, KHCN với thực tiễn kỹ thuật và sản xuất, nhất là gắn những vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực công nghệ cao phù hợp với thực tiễn và điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước. Đồng thời, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, phát huy dân chủ trong khoa học, khuyến khích các hoạt động sáng tạo; trong đó, chú trọng tự nghiên cứu, nhất là những nghiên cứu mở hướng, ứng dụng vào thực tiễn dưới dạng dịch vụ KHKT.
Hiện nay, trước những phát triển rất nhanh của khoa học-CNQS, trong đó có công nghệ tự động hóa, Viện tiếp tục đề xuất, triển khai các hướng nghiên cứu công nghệ nền; triệt để khai thác các kết quả đã nghiên cứu, phát triển thành các dự án sản xuất, thử nghiệm để ứng dụng vào các lĩnh vực quân sự, quốc phòng và kinh tế- xã hội. Điều quan trọng hiện nay là đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ tự động hóa và các công nghệ cao khác, như: công nghệ laser, hồng ngoại; công nghệ nhúng; công nghệ tích hợp các mô-đun chuẩn trên chíp siêu nhỏ mật độ linh kiện cao; công nghệ SCADA diện rộng..., phục vụ cải tiến hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật (theo hướng nâng cao độ chính xác, độ thông minh và hiệu quả), hiện đại hóa sở chỉ huy các cấp trên cơ sở C3I, C4I2, đáp ứng yêu cầu tác chiến của một số quân chủng, binh chủng trong điều kiện mới. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, quá trình tiếp thu và làm chủ công nghệ, nhất là công nghệ cao được chuyển giao bằng những con đường khác nhau để từng bước sáng tạo ra công nghệ mới, đòi hỏi Viện vừa phải có những công trình nghiên cứu khoa học hết sức nghiêm túc và ở trình độ cao, vừa phải mở rộng liên kết, hợp tác về KHCN với các tổ chức nghiên cứu trong và ngoài nước. Đồng thời, đẩy mạnh công tác đào tạo về mọi mặt, trong đó chú ý đào tạo sau đại học và đào tạo nâng cao theo yêu cầu của từng chuyên ngành, nhất là đào tạo kiến thức chuyên môn và ngoại ngữ dưới mọi hình thức. Tiếp tục phát huy sáng kiến, cải tiến KHKT; động viên, khơi dậy tinh thần đoàn kết, lòng say mê lao động sáng tạo cho cán bộ, đảng viên trong đơn vị, nhằm chiếm lĩnh những đỉnh cao khoa học mới, xứng đáng và tiếp tục phát huy truyền thống 20 năm Viện Tự động hóa KTQS.
Đại tá, TS. NGUYỄN VŨ
Viện trưởng
Trao đổi ý kiến giữa Tạp chí quốc phòng toàn dân với bạn đọc, cộng tác viên Quân khu 5 12/12/2011
Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng quân sự trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc 12/12/2011
“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay 12/12/2011
Một số vấn đề về nghệ thuật chiến dịch phòng ngự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc 12/12/2011
Hưng Yên không ngừng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng 12/12/2011
Kết quả và kinh nghiệm tiến hành công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của lực lượng vũ trang Quân khu 5 12/12/2011
Đoàn B.90 nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng dự bị động viên - một số kinh nghiệm bước đầu 12/12/2011
Trường Quân sự Binh đoàn Cửu Long phấn đấu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và huấn luyện 11/12/2011
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo lập thế trận phòng thủ vững chắc trên địa bàn tỉnh ven biển Thái Bình 11/12/2011
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga phát huy nội lực, mở rộng hợp tác, nâng cao hiệu quả hoạt động 11/12/2011