QPTD -Thứ Sáu, 05/08/2011, 22:24 (GMT+7)
Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Hậu cần quân đội

Doanh nghiệp Hậu cần (DNHC) là một bộ phận quan trọng của doanh nghiệp (DN) quốc phòng, có nhiệm vụ tổ chức sản xuất, tạo nguồn vật chất hậu cần theo quy mô công nghiệp để cung cấp cho quân đội trong thời bình cũng như trong thời chiến. Phần lớn các DNHC hiện nay được hình thành, phát triển từ các trạm, xưởng, nhà máy, xí nghiệp sản xuất công nghiệp của ngành Hậu cần (chủ yếu là: quân nhu, quân y, doanh trại, xăng dầu,...) trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ trước đây, tập trung chủ yếu ở miền Bắc, với công nghệ lạc hậu, sản xuất phân tán, số lượng và chất lượng sản phẩm hạn chế...

Thực hiện đường lối đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đất nước từ kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng, phần lớn các cơ sở sản xuất công nghiệp hậu cần được chuyển thành DN, tự chủ hạch toán sản xuất, kinh doanh (SXKD). Cùng với quá trình kiện toàn hệ thống tổ chức, biên chế của Quân đội và ngành Hậu cần, các DNHC từng bước được củng cố, bố trí, sắp xếp lại phù hợp với cơ cấu vùng, miền và yêu cầu, nhiệm vụ của Ngành. Các DNHC chủ yếu là DN quốc phòng và DN kinh tế- quốc phòng, hoạt động công ích phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội thời bình và sẵn sàng bảo đảm cho thời chiến. Vượt qua những khó khăn, thách thức của bước khởi đầu hoạt động SXKD trong cơ chế thị trường, phần lớn các DNHC đã chủ động, sáng tạo tìm hướng phát triển phù hợp, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà xưởng, mạnh dạn đổi mới công nghệ, phương thức quản lý, từng bước nâng cao năng lực sản xuất, chú trọng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm gắn với hạ giá thành, không những đáp ứng số lượng, chất lượng sản phẩm quốc phòng, mà còn tham gia cạnh tranh cung cấp hàng kinh tế dân sinh trong nước và xuất khẩu; chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, quy định của Bộ Quốc phòng (BQP) trong hoạt động SXKD... Hằng năm, các DNHC đều hoàn thành kế hoạch được cấp trên giao; doanh thu, lợi nhuận ngày càng tăng; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp ngân sách với Nhà nước; bảo đảm việc làm ổn định và cải thiện thu nhập của người lao động; xây dựng DN vững mạnh... Nhờ hoạt động SXKD có hiệu quả, các DNHC đã thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong việc giữ gìn và phát triển năng lực sản xuất quốc phòng, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao và hệ thống dây chuyền công nghệ, phương tiện,... tạo cơ sở cho quá trình phát triển công nghiệp hậu cần trong thời kỳ mới.

Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khóa IX; Nghị quyết 71/ĐUQSTW ngày 25- 4- 2002 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời kỳ mới - Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DN quân đội; các quyết định của Chính phủ, BQP  về sắp xếp, đổi mới DN quân đội, trong đó có DNHC, Đảng ủy, chỉ huy Tổng cục Hậu cần (TCHC) đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo sắp xếp, đổi mới các DNHC, gắn với tổ chức lực lượng của Ngành. Tổng cục đã chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng và Ban chỉ đạo cổ phần hóa DN Quân đội, chỉ đạo các DNHC triển khai thực hiện cổ phần hóa theo đúng quy trình, nội dung, thủ tục quy định của Chính phủ và BQP; chú trọng quản lý và giải quyết chính sách thỏa đáng cho người lao động theo đúng quy định của Chính phủ (riêng quân nhân giải quyết theo quy định của BQP) một cách tận tình, chu đáo, có lợi nhất cho người lao động. Các DNHC đã tích cực triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt được kết quả bước đầu đáng khích lệ. Đến nay, việc sắp xếp, đổi mới các DNHC được thực hiện theo 3 mô hình: công ty mẹ-công ty con, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên và công ty cổ phần. Trong đó, có 3 Tổng Công ty: Tổng Công ty Thành An, Tổng Công ty 28 và Tổng Công ty Xăng dầu Quân đội, được chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con; có 2 DN: Công ty 36-Tổng Công ty Thành An và Công ty 28.1-Tổng Công ty 28 được chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên; 14 DN đã cổ phần hóa xong, chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần.

Cần thấy rằng, quá trình sắp xếp, đổi mới DN cũng là quá trình thực hiện các bước chuyển đổi, sáp nhập, giải thể, phá sản một số DN theo quy định của pháp luật để giảm số lượng đầu mối DN, hình thành những DN mạnh là những Tổng Công ty, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên (100% vốn Nhà nước) và các công ty cổ phần hoạt động theo Luật DN.   

Điểm nổi bật đáng ghi nhận là, trong quá trình sắp xếp, chuyển đổi mô hình DN, hoạt động SXKD của các DNHC vẫn ổn định và tăng trưởng. Ba năm gần đây, các DNHC đều hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao; riêng năm 2008, mặc dù gặp nhiều khó khăn rất gay gắt, nhưng các chỉ tiêu kinh tế đều vượt kế hoạch được giao: doanh thu đạt 117%, thu nhập bình quân của người lao động đạt 108,7%, nộp ngân sách đạt 118%, lợi nhuận trước thuế đạt 105%. Đặc biệt, các DN sau khi cổ phần đã vận dụng cơ chế quản lý, điều hành, giám sát phù hợp, thực hiện đầy đủ quyền tự chủ hạch toán SXKD nên đạt hiệu quả cao hơn; các chỉ tiêu về: doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tỷ suất lợi nhuận trên vốn, thu nhập của người lao động,... đều tăng hơn trước; tiêu biểu như Công ty cổ phần 32 có cổ tức bình quân đạt 25%/năm, Công ty cổ phần 199 và Công ty cổ phần Xây lắp Thành An 96 có cổ tức bình quân đạt 15%/năm...   

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình sắp xếp, đổi mới DNHC còn một số hạn chế. Đó là, tiến độ sắp xếp, đổi mới các DNHC nhìn chung còn chậm, nhất là việc cổ phần hóa. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa chặt chẽ, kiên quyết; hoạt động của Ban chỉ đạo cổ phần hoá của các DN chưa tích cực, giải quyết các thủ tục hành chính còn chậm. Nhận thức, trách nhiệm của một số lãnh đạo DN chưa đầy đủ, thậm chí còn muốn giữ mô hình quản lý cũ, nên thiếu quyết tâm triển khai thực hiện cổ phần hóa, hoặc muốn tìm phương án sắp xếp khác; một số công ty thành viên (trong Tổng Công ty) còn có tồn đọng về tài chính, cần có thời gian để giải quyết và xác định giá trị DN. Triển khai xây dựng đề án chuyển DN sang tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con còn lúng túng... Ngoài ra, sự tác động của khủng hoảng tài chính thế giới, trực tiếp là thị trường chứng khoán năm 2008 cũng đã làm cho các nhà đầu tư hạn chế sức mua cổ phần của các DN thực hiện cổ phần hóa (Tổng cục phải báo cáo BQP xin điều chỉnh phương án cổ phần hóa  theo hướng tăng tỷ trọng vốn Nhà nước ở một số DN)...  

Để khắc phục những hạn chế trên, đẩy nhanh tiến độ và đưa quá trình sắp xếp, đổi mới các DNHC đúng định hướng, mục tiêu đã xác định, tiếp tục nâng cao hiệu quả SXKD của DN, thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:

Trước hết, tiếp tục quán triệt và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của Đảng, Chính phủ, BQP về sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DN quân đội; trực tiếp là Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 31-3-2008 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới DN 100% vốn nhà nước thuộc BQP giai đoạn 2008-2010”, Thông tư số 76/2008/TT-BQP và Chỉ thị số 75/2008/CT-BQP của BQP về thực hiện Quyết định trên của Chính phủ; Nghị quyết của Đảng ủy TCHC và Chỉ thị của Chủ nhiệm TCHC về sắp xếp, đổi mới các DNHC... Trên cơ sở đó, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện sắp xếp, đổi mới các DNHC với phương châm “chủ động, toàn diện, vững chắc”, bảo đảm đúng quy trình, nguyên tắc. Từ cơ quan Tổng cục đến các DN cần tạo được sự thống nhất về nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm và mục tiêu thực hiện. Cấp ủy và chỉ huy DN thuộc diện sắp xếp, đổi mới và cổ phần hoá phải coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết; có kế hoạch, biện pháp thực hiện đạt hiệu quả. Bên cạnh đó, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, làm cho từng cán bộ, đảng viên, công nhân viên quốc phòng và người lao động, trước hết là cán bộ chủ trì trong DN đồng thuận với chủ trương của cấp trên, tạo sự thống nhất cao trong thực hiện cổ phần hóa DN.

Hai là, tích cực thực hiện phương án sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa các DNHC được BQP phê duyệt. Theo đó, tiếp tục thực hiện cổ phần hoá Công ty Dược và Trang thiết bị y tế quân đội và Công ty 491/Tổng Công ty Thành An để hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới DN được Bộ giao. Xây dựng và hoàn thiện Điều lệ tổ chức và hoạt động, quy chế quản lý tài chính của Tổng Công ty 28 và Tổng Công ty Xăng dầu Quân đội. Các cơ quan chức năng của Tổng cục cần tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của BQP để giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình sắp xếp, đổi mới và cổ phần hoá, không để ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của DN và việc làm, thu nhập của người lao động.

Ba là, thực hiện đồng bộ các giải pháp để bán cổ phần cho các nhà đầu tư theo phương án cổ phần hóa được BQP phê duyệt. Đây là một trong những nội dung rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự thành công cổ phần hóa của các DNHC. Các DN cần kết hợp đồng bộ các giải pháp về: tổ chức, kinh tế, tài chính, chính sách...;đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo, cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin về DN, nhất là công nghệ, năng lực sản xuất, thị trường, tài chính, nguồn nhân lực,...để thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư mua cổ phiếu các DN cổ phần. Cùng với việc xử lý tốt các tồn đọng, vướng mắc về tài chính theo quy định của Bộ Tài chính, các DN cần thực hiện có hiệu quả các khâu có liên quan đến việc định giá, như: kiểm kê, phân loại tài sản, phương án xử lý tài chính... Đây là nội dung rất quan trọng, nhạy cảm, các DN cần tăng cường kiểm tra, giám sát, không được giao và khoán trắng cho tổ chức tư vấn (được thuê) xác định giá trị DN; việc đề xuất xử lý tài chính phải hoàn thành trước khi hoàn chỉnh hồ sơ xác định giá trị DN để báo cáo cấp trên phê duyệt. Cùng với đó, kịp thời xây dựng phương án SXKD cho 3 đến 5 năm sau cổ phần hoá, bảo đảm cho các DN cổ phần ổn định và phát triển bền vững. Phương án đó phải bao quát các yếu tố có liên quan trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng thực trạng các nguồn lực của DN, dự báo nhu cầu cũng như mức độ cạnh tranh trên thị trường, tính toán đầy đủ mọi chi phí, kể cả chi phí thuê đất...Đặc biệt, trong xây dựng phương án sử dụng lao động, cần quan tâm, ưu tiên sử dụng lao động hiện có của DN, có tính đến mục tiêu dài hạn; trường hợp do thay đổi công nghệ mới mà lực lượng hiện có không đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng, phải chấm dứt hợp đồng, các DN phải giải quyết đầy đủ chế độ, chính sách cho người lao động, vận dụng tối đa trong phạm vi có thể để đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng; mặt khác, chú trọng việc vận động, thuyết phục người lao động hiểu và ủng hộ chủ trương sắp xếp, đổi mới và cổ phần hoá DN, tích cực tham gia mua cổ phần, trước hết là cổ phần ưu đãi, vì lợi ích của bản thân, đồng thời cũng vì tương lai của DN.

 Bốn là, tăng cường chỉ đạo các DNHC ổn định sản xuất, nâng cao hiệu quả SXKD. Kết hợp chặt chẽ quá trình sắp xếp, chuyển mô hình hoạt động của DN với ổn định sản xuất, lấy hiệu quả SXKD là mục tiêu chủ yếu; phấn đấu duy trì  mức tăng trưởng phù hợp với mục tiêu chung (dự kiến doanh thu năm 2009 cao hơn năm trước từ 7% trở lên), bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách với Nhà nước, BQP; hằng năm, hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao.

Trong sản xuất, các DN phải coi sản xuất hàng quốc phòng là nhiệm vụ chính trị trung tâm; ưu tiên năng lực sản xuất để hoàn thành kế hoạch được giao, bảo đảm đúng  số lượng, chất lượng và tiến độ giao nộp, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu hậu cần cho toàn quân thực hiện nhiệm vụ. Tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu, cải tiến, nâng cao chất lượng hàng quốc phòng, nhất là các mặt hàng phục vụ quân đội thực hiện nền nếp chính quy, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Đối với hàng kinh tế, các DN cần chủ động tìm nguồn hàng kinh tế xuất khẩu, duy trì các khách hàng truyền thống, tích cực tiếp thị mở rộng thị trường, phát huy tiềm năng từ nội lực, nâng cao khả năng cạnh tranh, đa dạng hóa mặt hàng, phấn đấu tăng doanh thu và lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước. Tiếp tục đổi mới phương thức quản lý, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả SXKD, bảo đảm ổn định việc làm và cải thiện đời sống của người lao động. Tích cực triển khai thực hiện các dự án đầu tư đã được phê duyệt; đồng thời, khai thác có hiệu quả các dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng, góp phần nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả SXKD của DN.

Phát huy kết quả đạt được, các cấp, các ngành có liên quan và các DN  cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm, thực hiện đồng bộ các giải pháp, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới DNHC, bảo đảm đúng định hướng, mục tiêu và nâng cao hiệu quả SXKD của DN, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân đội và tham gia phát triển kinh tế- xã hội đất nước thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

Thiếu tướng DƯƠNG VĂN RÃ

Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần

 
Ý kiến bạn đọc (0)