QPTD -Thứ Năm, 27/10/2011, 22:29 (GMT+7)
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế

Trong nhiều thập niên trước khi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng, vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan, nước ta đã xây dựng, phát triển nền kinh tế XHCN theo mô hình cộng sản thời chiến. Mô hình này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đất nước chuyển sang thời kỳ xây dựng, phát triển trong hoà bình, dưới tác động rất mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hoá, mô hình đó đã trở thành lực cản, trói buộc, kìm hãm đối với mọi động lực của tăng trưởng, phát triển kinh tế. Trong bối cảnh đó và trước những đòi hỏi bức bách của cuộc sống, Đảng, Nhà nước ta đã có các Nghị quyết, Chỉ thị nhằm tháo gỡ những khó khăn, trong những phạm vi hạn hẹp, cục bộ, mang tính tình thế theo hướng thị trường. Kết quả của việc triển khai thực hiện những đổi mới đó rất khả quan, tạo cơ sở thực tiễn cho Đảng và Nhà nước ta quyết tâm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước, bắt đầu từ sự đổi mới tư duy và thay đổi cơ chế kinh tế.

Trong suốt 15 năm, từ Đại hội VI (năm 1986) đến Đại hội VIII (năm 2000), Đảng và Nhà nước ta thực hiện quá trình đổi mới toàn diện cả từ nhận thức lý luận đến cấu trúc thực tiễn và cơ chế vận hành của nền kinh tế với nội dung thực chất là: từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu – bao cấp, thừa nhận vai trò của thị trường và thực hiện nhất quán đường lối “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN”.

Thực hiện đường lối đó, trên mặt trận kinh tế, Đại hội VI đã chủ trương tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện 3 chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường đầu tiên. Việc tiến hành đổi mới tổ chức sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết X của Bộ Chính trị, Nghị quyết BCHTƯ lần thứ 6 (khóa VI) đã tạo xung lực mới, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh mẽ chưa từng có. Trên phương diện hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta cũng xác định phải hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại và đưa nền kinh tế nước ta tham gia vào sự phân công lao động quốc tế. Nhưng trong bối cảnh quốc tế lúc đó, nước ta còn bị các nước tư bản, đế quốc bao vây, cấm vận ngặt nghèo, nên Đại hội VI đã chỉ rõ: trước hết và chủ yếu là mở rộng quan hệ phân công hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Cămpuchia, với các nước khác trong cộng đồng XHCN, đồng thời tranh thủ mở rộng quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.

Đại hội VII của Đảng diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều tiến bộ: thoát khỏi sự thiếu đói về lương thực - thực phẩm; lạm phát “phi mã” đã cơ bản được khắc phục; lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước được củng cố. Trước sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, gây chấn động tiêu cực rất dữ dội đối với tiến trình đổi mới của nước ta, Đảng ta đã tỏ rõ sự sáng suốt và bản lĩnh chính trị vững vàng của một Đảng cách mạng, được tôi luyện dạn dày trong “máu lửa”, nên vẫn kiên định mục tiêu XHCN với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Sự kiên định mục tiêu XHCN còn được thể hiện rõ trong Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII) bằng quan điểm chỉ đạo: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Công bằng xã hội thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất cũng như ở điều kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng. Nhờ thực hiện có kết quả những chủ trương và định hướng trên, nước ta đã đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đạt được nhiều thành tựu to lớn, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội sớm hơn dự định 5 năm, tạo được thế và lực mới cho sự phát triển theo mục tiêu đã hoạch định. Về hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội VII của Đảng chủ trương giữ vững định hướng XHCN trong hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng, đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế đối ngoại dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, cùng có lợi. Thực hiện chủ trương đúng đắn đó, đồng thời bám sát sự phát triển của tình hình, chúng ta không những phá được thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, mà còn triển khai sâu rộng quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc; có những bước đi phù hợp tiến tới bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ; tham gia hợp tác khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA);v.v.

Tại Đại hội VIII của Đảng, với những nhận thức mới cao hơn về phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, cùng những thành tựu đạt được và những hạn chế, yếu kém rút ra từ thực tiễn đổi mới, Đảng ta chủ trương đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với quan điểm chỉ đạo là: Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất; ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Đại hội VIII của Đảng đã chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đưa ra thông điệp: Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội VIII về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Hội nghị BCHTƯ lần thứ 4 (khoá VIII) nhấn mạnh: Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA. Triển khai thực hiện có hiệu quả những chủ trương trên, nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả khả quan, giữ vững định hướng XHCN và trụ vững trước những tác động rất mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực trong những năm 1997-1999, bắt đầu khôi phục lại sự tăng trưởng kinh tế vào năm 2000, vững bước tiến vào thế kỷ 21 trên con đường tiến lên XHCN với thế và lực mới.

Từ kinh nghiệm thực tiễn của 15 năm đổi mới, đồng thời dựa trên những nhận thức mới về lý luận rằng, kinh tế thị trường là một chỉnh thể chứ không phải chỉ là một công cụ hay một cơ chế quản lý, Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) đã chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; coi đó là mô hình tổng quát của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Đại hội cũng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Về hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội IX của Đảng đã thể hiện tinh thần chủ động hội nhập kinh tế với thông điệp “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Và để giữ vững định hướng XHCN trong hội nhập kinh tế quốc tế, Hội nghị BCHTƯ lần thứ 8 (khóa IX) đã nêu rõ: “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh”.

Như vậy, nhờ giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế mà đất nước ta đã tiến hành thành công sự nghiệp đổi mới trong 20 năm qua, đem lại nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử, tạo được thế và lực cho nước ta vững bước tiến lên trên con đường XHCN. Điều này được minh chứng một cách rõ ràng bằng những thành tựu nổi bật là: Nước ta đã có một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, được vận hành theo cơ chế thị trường, dưới tác động chủ đạo của kinh tế nhà nước và sự quản lý điều tiết vĩ mô của Nhà nước pháp quyền XHCN, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước; gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống còn khoảng 20% theo chuẩn quốc tế, được thế giới đánh giá là một điển hình trong thực hiện các mục tiêu của thiên niên kỷ theo chương trình Liên hợp quốc. Trong hội nhập kinh tế cũng đạt được nhiều thành tựu nổi bật, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2006 đạt trên 40 tỷ USD. Đặc biệt, Hoa Kỳ đã thừa nhận Việt Nam là một nước độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ và đối tác kinh tế bình đẳng của Hoa Kỳ trên thị trường thế giới. Tất cả những cam kết hội nhập kinh tế cả song phương lẫn đa phương của Việt Nam với Hoa Kỳ và các nước khác không có điểm nào vi phạm hay đặt ra sự hoài nghi, phản bác mục tiêu định hướng XHCN mà chúng ta đã lựa chọn và đang hướng tới.

Dựa trên những thành tựu nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận qua 20 năm đổi mới; kế thừa tư duy Đại hội IX, Đại hội X của Đảng đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong những năm tới. Điều đó được thể hiện trên những nội dung sau:

- Xác định rõ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Mục tiêu này thể hiện sự phát triển kinh tế là vì con người và do con người; điều đó khác hẳn với mục tiêu phát triển của nền kinh tế thị trường TBCN là vì lợi nhuận tối đa của nhà tư bản, xây dựng và bảo vệ chế độ tư bản chủ nghĩa.

- Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hướng mạnh về xuất khẩu và khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước phải vươn lên mạnh mẽ, nắm vững những vị trí then chốt, huyết mạch của nền kinh tế bằng trình độ khoa học - công nghệ, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, gương mẫu chấp hành pháp luật và nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng hợp tác liên danh với các thành phần kinh tế khác để cùng phát triển mạnh mẽ trên con đường XHCN. Trước mắt, cần đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, làm cho doanh nghiệp nhà nước thực sự đảm đương tốt hơn vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.

- Thực hiện tốt hơn định hướng XHCN trong phân phối kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục, đào tạo,..; giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người và bảo vệ môi trường nhằm “phát triển nhanh và bền vững”. Hướng theo mục tiêu đó, định hướng XHCN trong phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng thời, để khuyến khích sự đóng góp của các cá nhân cho sự phát triển, phân phối còn quan tâm thoả đáng đến mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác.

- Trong lĩnh vực quản lý, một mặt cần bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; mặt khác, coi trọng phát huy vai trò làm chủ, tham gia quản lý của công nhân, viên chức và các cổ đông trong các công ty cổ phần. Đây là điều thể hiện sự khác biệt về chất địa vị giữa người lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với người làm thuê trong nền kinh tế TBCN.

- Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thế giới, xây dựng nền kinh tế có chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao; giải phóng mọi sức sản xuất; từng bước tự do hoá các hoạt động kinh tế, tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; mở cửa thị trường; đẩy mạnh các hoạt động kinh tế - thương mại - tài chính giữa nước ta với các quốc gia trên thế giới.

- Chủ động quyết định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chủ trương, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng, đảm bảo giữ vững định hướng XHCN, trên  cơ sở nắm vững quy luật, tính tất yếu khách quan của sự vận động kinh tế toàn cầu, phát huy đầy đủ năng lực nội sinh, xác định lộ trình, nội dung, quy mô, bước đi phù hợp; sáng tạo, phân tích, lựa chọn phương thức hành động, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập để thực hiện có hiệu quả đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại.

- Khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, đổi mới bên trong từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiễn; từ Trung ương đến địa phương, doanh nghiệp, mọi người dân và khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nhanh chóng khắc phục tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp và bảo hộ của Nhà nước.

Từ những thành tựu, bài học kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và kết quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 20 năm qua, đặc biệt là thành công của tuần lễ APEC 14, việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO và gần đây nhất là sự kiện Hoa Kỳ thông qua PNTR đối với Việt Nam,... chúng ta tin tưởng rằng, giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là chìa khóa để đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu đến năm 2010 đưa nước ta ra khỏi danh sách các nước đang phát triển có thu nhập thấp và 2020 trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

GS, TS. Hoàng Ngọc Hoà và Hoàng Ngọc Hải

Học viện CTQG Hồ Chí Minh 

Ý kiến bạn đọc (0)