QPTD -Thứ Ba, 16/08/2011, 00:17 (GMT+7)
Bàn về xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển, đảo

Là quốc gia ven biển, với trên 3.260 km bờ biển trải dọc theo chiều dài đất nước và vùng biển chủ quyền rộng khoảng 1 triệu km2, Việt Nam có rất nhiều lợi thế về biển và biển cũng giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta. Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá X) về Chiến lược biển Việt Nam đến 2020 đã xác định mục tiêu: "phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giầu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH, làm cho đất nước giầu mạnh"1. Để đạt được mục tiêu đó, Nghị quyết cũng chỉ rõ :"phát triển kinh tế biển phải gắn liền với quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân (QPTD) gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên biển"2. Đây là định hướng chiến lược quốc phòng-an ninh, là sự cụ thể hoá mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược (xây dựng và bảo vệ Tổ quốc): phát triển kinh tế biển là tạo nguồn lực vật chất và tinh thần tại chỗ, cùng với nguồn lực của cả nước là cơ sở tăng cường sức mạnh quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo; ngược lại, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo lại tạo môi trường hoà bình, ổn định để kinh tế phát triển. Trong đó, xây dựng thế trận QPTD vững chắc là nền tảng và là yêu cầu vừa cấp thiết trước mắt, vừa cơ bản lâu dài trong chiến lược biển của nước ta.

Thế trận QPTD trên biển là một bộ phận của thế trận QPTD của cả nước. Nhưng cần thấy hướng biển là một hướng chiến lược trọng yếu, nên thế trận QPTD trên biển là bộ phận quan trọng của thế trận phòng thủ chung của đất nước; việc xây dựng là cấp thiết và mang tính đặc thù. Thực chất của thế trận QPTD trên biển là thế bố trí lực lượng, phương tiện quốc phòng trên vùng biển, đảo của Việt Nam theo một ý định chiến lược, nhằm phát huy cao độ sức mạnh quốc phòng của đất nước trên hướng biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và thềm lục địa của Tổ quốc; đồng thời, tạo thế phòng ngừa, ngăn chặn âm mưu lấn chiếm, xâm lược của kẻ địch và sẵn sàng giáng trả khi chúng liều lĩnh tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta từ hướng biển. Xây dựng thế trận QPTD trên biển bao gồm nhiều nội dung, nhưng quan trọng hàng đầu là phải xác định được các vùng chiến lược, tầm quan trọng của từng vùng về kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh...; trên cơ sở đó, nghiên cứu, xây dựng kế hoạch bố trí, triển khai các lực lượng, phương tiện quốc phòng cho phù hợp với điều kiện địa hình, đối tượng tác chiến, mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ để tạo lập thế trận vững chắc. Do thành phần lực lượng quốc phòng trên biển rất đa dạng, ở từng khu vực cũng có khác nhau, nên trong bố trí lực lượng cần tính toán đảm bảo sự cân đối, hợp lý để từng lực lượng có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát huy được sở trường, thế mạnh riêng; đồng thời, đảm bảo khả năng phối hợp, hiệp đồng, hỗ trợ, bổ sung cho nhau, nhân lên gấp bội sức mạnh tổng hợp của các lực lượng và của cả nước trong quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chiến trường biển có không gian rộng, môi trường tác chiến phức tạp, nên trong quá trình xây dựng thế trận QPTD phải hết sức coi trọng xây dựng khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố ven biển, đặc biệt là xây dựng các đảo và quần đảo trở thành các pháo đài hay các huyện đảo phòng thủ kiên cố. Bởi, đó là một thành phần quan trọng của thế trận, tạo nên thế phòng thủ liên hoàn, vững chắc, có chiều sâu, nhiều tầng, nhiều tuyến từ biển vào bờ. Chính các đảo và quần đảo là lợi thế tự nhiên hết sức quan trọng trong việc phòng thủ và trở thành các cứ điểm hay tập đoàn cứ điểm tiền tiêu của đất nước ở tuyến phòng thủ ngoài bờ, có thể cản trở, ngăn chặn bước tiến của kẻ địch khi chúng tiến công xâm lược nước ta từ hướng biển. Cùng với đó, phải chăm lo đầu tư xây dựng hậu phương và các căn cứ bảo đảm của chiến trường biển hoặc khu vực tác chiến. Từ hậu phương và các căn cứ đó có thể bảo đảm nhân lực được đào tạo, huấn luyện phù hợp với yêu cầu tác chiến, cung cấp và bảo đảm vật chất, hậu cần, vũ khí, trang bị cho các lực lượng, động viên tinh thần, hỗ trợ về chính sách xã hội, v.v. (Thông thường, hậu phương và căn cứ của chiến trường biển được bố trí trên địa bàn các quân khu hoặc các tỉnh, đặc khu ven biển).

Thế trận QPTD trên biển là thế trận dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị; trong đó, việc gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng-an ninh là một mặt trọng yếu, một phương châm chiến lược và phải được cụ thể hoá trong mọi mặt hoạt động sản xuất trên biển: từ khảo sát, thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản, dầu khí, đánh bắt, nuôi trồng hải sản cho đến vận tải đường biển, du lịch biển... Việc kết hợp đó phải đảm bảo mỗi bước phát triển kinh tế biển phải là một bước tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước trên biển. Quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên hướng biển là một trong những biểu hiện sinh động nhất của đường lối quốc phòng toàn dân, nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc và là cơ sở quan trọng để chúng ta thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Một yếu tố quan trọng có tính quyết định đến sức mạnh quốc phòng của nươc ta là yếu tố chính trị- tinh thần của nhân dân. Nền tảng của nền QPTD, chiến tranh nhân dân Việt Nam chính là sự tham gia tích cực của mọi người dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng vào cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc. Vì vậy, phải  chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân”, huy động sức mạnh của toàn dân cho sự nghiệp phát triển kinh tế biển, quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Đây cũng chính là một nội dung trọng yếu của việc xây dựng cơ sở chính trị xã hội, xây dựng "thế trận lòng dân" trong Chiến lược biển Việt Nam của Đảng ta.

Để xây dựng thế trận QPTD trên biển ngày càng vững chắc, ngay từ thời bình, chúng ta phải tiến hành đồng bộ các giải pháp, trong đó tập trung vào một số giải pháp chính sau đây:

1- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục trong mọi tầng lớp nhân dân, nhất là ở những địa phương ven biển, đảo; qua đó, để mọi người nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng chiến lược của biển, đảo trong sự phát triển của đất nước, nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Đặc biệt, phải tạo sự chuyển biến mạnh mẽ tư duy và hành động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính quyền các cấp, hướng sự quan tâm về biển đảo vào thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, nhất là trong đầu tư nghiên cứu, xây dựng và phát triển các ngành kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với  quốc phòng, quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của đất nước.

2- Không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về hoạt động trên biển và quản lý biển, tạo hành lang pháp lý cho các lực lượng hoạt động và quản lý biển một cách có hiệu quả, phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng hoạt động trên biển, cả trong thời bình lẫn thời chiến. Trên biển hiện nay có rất nhiều lực lượng thường xuyên hoạt động; bao gồm các đơn vị lực lượng vũ trang (hải quân, phòng không- không quân, lục quân, Biên phòng, Cảnh sát biển và các binh chủng kỹ thuật khác, lực lượng dân quân, tự vệ biển), các đội tàu vận tải của rất nhiều công ty khác nhau, lực lượng khai thác khoáng sản (dầu khí) và nhân dân sinh sống, làm ăn trên biển. Mỗi lực lượng có chức năng, nhiệm vụ, hoạt động theo phương thức riêng, trong các điều kiện và thời gian khác nhau, trực thuộc quyền quản lý của nhiều đơn vị khác nhau: Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tổng cục Hải quan... Do vậy, cần phải xây dựng hệ thống văn bản pháp lý để quản lý hoạt động của các lực lượng đó một cách thống nhất cả trong thời bình và thời chiến. Chỉ có như vậy mới tăng cường được sự quản lý nhà nước, phát huy được sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng cho sự nghiệp phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

3- Chăm lo xây dựng các lực lượng hoạt động trên biển vững mạnh toàn diện; trong đó, đặc biệt quan tâm xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại", có chất lượng tổng hợp và trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, đủ sức làm nòng cốt trong quản lý và bảo vệ biển, đảo, nhất là tác chiến trong điều kiện địch tiến hành chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao từ hướng biển. Để hoàn thành trọng trách, Hải quân nhân dân Việt Nam cần được tổ chức, biên chế đảm bảo cơ cấu hợp lý, cân đối và đồng bộ, có đủ thành phần lực lượng tác chiến tại chỗ, lực lượng cơ động trên biển, có khả năng hoạt động tác chiến trên các vùng biển gần và biển xa của Tổ quốc. Trong điều kiện hiện nay, cần tập trung xây dựng các lực lượng tác chiến biển xa, như: tầu ngầm, không quân tác chiến trên biển, tầu hộ vệ đa năng, tầu tên lửa, tên lửa bờ tầm xa...; lực lượng tác chiến biển gần, như tên lửa bờ, tầu tên lửa loại nhỏ, tầu tuần tiễu đa năng, thuỷ lôi...; lực lượng làm công tác bảo đảm cho các hoạt động tác chiến trên biển... Đồng thời, cần nghiên cứu, điều chỉnh bố trí các lực lượng hải quân cho phù hợp với yêu cầu của Chiến lược biển, nhiệm vụ, điều kiện địa hình, khí hậu, thuỷ văn biển ở từng vùng, từng khu vực cụ thể, hình thành thế trận hải quân trong thời bình và có sẵn các phương án bổ sung, phát triển khi cần thiết theo yêu cầu nhiệm vụ được giao. Cũng cần thấy, tác chiến hải quân là tác chiến kỹ thuật hiện đại, nên cùng với việc  khai thác và sử dụng thuần thục các loại vũ khí, trang bị hiện có, cũng cần tích cực đầu tư nghiên cứu cải tiến, mua sắm mới một số loại vũ khí hải quân hiện đại, phù hợp với điều kiện của đất nước và yêu cầu nhiệm vụ. Đẩy mạnh công tác huấn luyện quân sự, nghiên cứu phát triển phương thức, nghệ thuật tác chiến hải quân, nhất là tác chiến hiệp đồng binh chủng, quân chủng và các lực lượng khác, không ngừng nâng cao khả năng làm chủ trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; ngăn chặn âm mưu lấn chiếm, xâm lược của kẻ địch và sẵn sàng đánh bại nếu chúng liều lĩnh tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta từ hướng biển. 

 4- Tích cực bổ sung, hoàn thiện thiết bị chiến trường và xây dựng đồng bộ hệ thống căn cứ bảo đảm tác chiến trên biển. Yêu cầu đặt ra là công tác thiết bị chiến trường phải tạo ra những điều kiện thuận lợi, vừa bảo đảm an toàn cho các hoạt động trên biển trong mọi hoàn cảnh, điều kiện thời tiết, ban ngày cũng như ban đêm, lại vừa tạo ra thế trận có lợi cho tác chiến của các lực lượng khi chiến tranh xảy ra. Muốn vậy, các công trình quốc phòng, phòng thủ chiến đấu, nhất là hệ thống bảo đảm thông tin- liên lạc, thông báo hàng hải, cứu hộ, cứu nạn trên biển; hệ thống trinh sát, thông tin quan sát dẫn đường trên không, trên biển, dưới ngầm; hệ thống công sự, trận địa chiến đấu ở ven biển, dưới ngầm và trên các đảo, v.v, đều phải được xây dựng từ thời bình và luôn đảm bảo đủ cơ số cũng như yêu cầu kỹ thuật theo quy định sẵn sàng chiến đấu và kế hoạch, phương án tác chiến. Đồng thời, cùng với hiện đại hoá vũ khí, trang bị hải quân, việc xây dựng các căn cứ bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho tác chiến cũng đặt ra cấp bách, với những yêu cầu ngày càng cao hơn. Bởi vậy, cần tính toán xây dựng các căn cứ hậu cần, kỹ thuật đảm bảo tính đồng bộ, hiện đại, phù hợp với chiến trường, trang bị vũ khí, yêu cầu nhiệm vụ tác chiến và phải chuẩn bị các kế hoạch, phương án phòng thủ bảo vệ chu đáo trước các đòn tiến công trong điều kiện chiến tranh địch sử dụng vũ khí công nghệ cao.

Chuẩn đô đốc, PGS, TS. PHẠM HỒNG THUẬN

Giám đốc Học viện Hải quân

__________

1- Ban TT-VHTƯ- Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCHTƯ Đảng khoá X, Nxb CTQG, H.2007, tr 94-95.

 2- Sđd, tr 99.

 

Ý kiến bạn đọc (0)