QPTD -Thứ Năm, 21/10/2021, 08:12 (GMT+7)
Đường Hồ Chí Minh trên biển - những dấu ấn, kỳ tích còn mãi

Đường Hồ Chí Minh trên biển, dấu ấn đậm nét trong dòng chảy lịch sử dân tộc Việt Nam; sự kết tinh sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; biểu hiện sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng; minh chứng hùng hồn khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng để lại nhiều bài học quý trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21/7/1954), đất nước ta tạm thời bị chia thành hai miền Nam, Bắc. Trong khi miền Bắc được giải phóng, từng bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, thì nhân dân miền Nam phải tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bởi, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tiến hành thống trị miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới; chúng dồn dân, lập ấp, đàn áp, tàn sát những người yêu nước,… hòng bóp nghẹt phong trào đấu tranh cách mạng của quân và dân miền Nam, phá bỏ Hiệp định Giơnevơ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta.

Không chịu khuất phục, nhân dân miền Nam nhất tề đứng lên đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ; các đơn vị vũ trang ra sức diệt ác, trừ gian, giành lại chính quyền. Khi phong trào cách mạng đang lên cao, Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa II) ra đời như tiếp thêm luồng sinh khí mới, thúc đẩy phong trào đấu tranh vũ trang của quân và dân miền Nam lan ra khắp nơi. Để bảo đảm mọi mặt cho quân, dân miền Nam kháng chiến, Trung ương Đảng chỉ đạo mở tuyến đường vận tải chiến lược trên biển để cùng với tuyến đường vận tải trên bộ - Đường Trường Sơn, chi viện kịp thời vũ khí, khí tài, đạn dược, thuốc men, bổ sung lực lượng, phương tiện chiến tranh. Đây là quyết định mang tầm chiến lược, sự sáng tạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh; thể hiện khát vọng độc lập, tự do, thống nhất non sông của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Sáu thập kỷ trôi qua, nhưng kỳ tích của Đường Hồ Chí Minh trên biển vẫn là dấu ấn sâu đậm trong dòng chảy lịch sử dân tộc Việt Nam.

1. Đường Hồ Chí Minh trên biển - tầm nhìn chiến lược của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy

Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân miền Nam bước vào giai đoạn đầy cam go, ác liệt, lực lượng vũ trang phát triển nhanh chóng, thì vấn đề bảo đảm vũ khí, trang bị cho bộ đội chủ lực và lực lượng du kích ngày càng trở nên cấp bách. Mặc dù được Trung ương quan tâm, chỉ đạo sát sao nhưng tuyến đường vận tải trên bộ - Đường Trường Sơn vẫn còn nhiều khó khăn, mới chỉ đến Khu V, chưa thể vươn tới ngay được các chiến trường ở cực Nam của Tổ quốc. Chính vì vậy, theo sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, ngày 23/10/1961, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thành lập Đoàn Vận tải biển 759 - tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân ngày nay để kịp thời chi viện lực lượng, phương tiện cho chiến trường miền Nam. Đây là quyết định thể hiện tầm nhìn chiến lược của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, đồng thời đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Ngay sau khi thành lập, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, cán bộ, chiến sĩ Đoàn Vận tải biển 759 chủ động khắc phục khó khăn, từng bước xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện tàu, thuyền, ổn định tổ chức và gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho việc mở tuyến đường vận tải trên biển - tuyến vận tải quân sự chiến lược Bắc - Nam.

Các đại biểu trao đổi bên lề hội thảo. Ảnh: qdnd.vn

Sau khi nghiên cứu, phân tích, đánh giá kỹ tình hình các chuyến đi thăm dò hai chiều Nam - Bắc, Bắc - Nam và chỉ đạo chặt chẽ công tác chuẩn bị tàu, thuyền, xây dựng phương án, Quân ủy Trung ương1, trực tiếp là Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Bông Văn Dĩa phụ trách chiếc tàu đầu tiên chở vũ khí vào Nam. Điều đó, càng khẳng định quyết tâm của Trung ương trong việc mở tuyến đường vận tải trên biển, bởi, đồng chí Bông Văn Dĩa là người trực tiếp đi khảo sát các khu vực ven biển, các hòn đảo của tỉnh Bạc Liêu để mở bến tiếp nhận vũ khí, trang bị và là người có kinh nghiệm đi biển cũng như đối phó với quân địch trong những lần vượt biển từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam nhằm vận chuyển vũ khí và truyền đạt chỉ thị của Trung ương cho Khu ủy. Đêm 12/10/1962, tàu “Phương Đông 1”, gồm 10 thủy thủ dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Lê Văn Một, Chính trị viên Bông Văn Dĩa chở hơn 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) đi về phương Nam. Đến sáng ngày 19/10/1962, tàu vào tới Chùm Gọng (Vàm Lũng, Tân An) an toàn. Tàu “Phương Đông 1” đã đi vào lịch sử “như một huyền thoại”, bởi đây là con tàu đầu tiên, chính thức khai thông tuyến vận tải trên biển - Tuyến vận tải quân sự chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển. Sau chuyến đi thành công của tàu “Phương Đông 1”, ba chiếc tàu khác cập bến Cà Mau an toàn, cùng với các bến Trà Vinh, Bến Tre và Bà Rịa hình thành các cụm bến đón, nhận các chuyến hàng đầu tiên của tuyến vận tải Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đánh giá cao chiến công này và kịp thời động viên cán bộ, chiến sĩ Đoàn Vận tải biển 759, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện biểu dương, căn dặn: “Cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 hãy nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh, nhiều vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam - Bắc sớm sum họp một nhà”2.

Như vậy, các chuyến tàu đầu tiên chở vũ khí bằng đường biển từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam thành công và an toàn chứng tỏ quyết định của Trương ương Đảng và Quân ủy Trung ương là đúng đắn, sáng tạo, thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

2. Những dấu ấn, kỳ tích còn mãi

Tính từ chuyến đi đầu tiên của tàu “Phương Đông 1” đến tháng 02/1965, ta đã vận chuyển hàng nghìn tấn vũ khí, trang bị, đưa hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội chi viện cho chiến trường miền Nam an toàn, đáp ứng được sự mong mỏi của quân và dân miền Nam. Mặc dù, quân địch dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với các loại vũ khí, thiết bị quân sự tối tân, hiện đại nhất để trinh sát, tuần tra, nhưng chúng không phát hiện được điều gì bất thường trên biển, tuyến vận tải quân sự chiến lược trên biển bảo đảm được yếu tố bí mật. Đây thực sự là một kỳ tích, vượt qua sự mong đợi và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Kỳ tích ấy đã khiến quân địch hết sức ngạc nhiên và cho rằng: “Việt cộng chở vũ khí vào Nam bằng đường biển là mạo hiểm, cuồng tín và không sao hiểu nổi”3. Có thể thấy, hành trình của Đường Hồ Chí Minh trên biển luôn khó khăn, gian khổ và có muôn vàn hiểm nguy, nhất là sau sự kiện Vũng Rô (tháng 02/1965), đường vận tải trên biển đã không giữ được bí mật. Sau khi quân địch phát hiện tuyến đường vận tải biển của ta, chúng tiến hành một loạt kế hoạch đánh phá miền Bắc; sử dụng máy bay trinh sát, tàu tuần tiễu, lùng sục từng kilômét vuông trên sông, trên biển và từng hòn đảo, hòng tìm diệt, phong tỏa, ngăn chặn, cắt đứt sự chi viện này. Trước việc đánh phá, lùng sục, phong tỏa gắt gao của địch, ta bí mật lựa chọn phương thức vận chuyển mới, qua nhiều vùng biển của một số nước lân cận, với cung đường dài hơn, lượng dự trữ xăng dầu, nước ngọt, thực phẩm lớn hơn, cách thức tiếp cận bờ, bốc xếp, cất giấu hàng gặp nhiều khó khăn hơn, hiệu quả vận chuyển bị hạn chế, thậm chí còn phải chịu nhiều hy sinh, tổn thất.

Nhưng với tinh thần “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “tất cả cho tiền tuyến”, không để chiến trường miền Nam thiếu vũ khí, trang bị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, chiến sĩ “Đoàn tàu không số” rút kinh nghiệm kịp thời sau mỗi chuyến đi; quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, chi viện đầy đủ sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam, cán bộ, chiến sĩ chọn đúng thời cơ, kết hợp chặt chẽ giữa bí mật với công khai; xuất phát ở nhiều bến (kể cả ở nước ngoài), cập ở nhiều điểm, đi nhiều cung đường, tuyến biển khác nhau: vòng ra biển xa, hải phận quốc tế; đường trong, đường ngoài; đường dài, phân đoạn,... khi địch phát hiện, áp sát tấn công hoặc cướp tàu, ta đánh trả quyết liệt, thậm chí chấp nhận hy sinh phá hủy tàu hàng, giữ bí mật tuyến đường vận chuyển.

Từ năm 1961 đến năm 1975, Đoàn tàu không số đã vận chuyển hàng trăm nghìn tấn vũ khí, đạn dược, hàng chục nghìn lượt cán bộ, chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam4. Đặc biệt, đáp ứng yêu cầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đoàn tàu không số đã thần tốc vận chuyển 8.741 tấn vũ khí, chở 18.741 cán bộ, chiến sĩ vào Nam chiến đấu, góp phần không nhỏ cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Khi nói về Đường Hồ Chí Minh trên biển, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định, đây “là biểu tượng của quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, của ý chí và tình cảm thống nhất đất nước, của sức mạnh tinh thần và trí tuệ của dân tộc Việt Nam đã chiến thắng sức mạnh vật chất kỹ thuật hiện đại của đế quốc Mỹ”5. Còn Thủ tướng Võ Văn Kiệt đánh giá: “Năm tháng sẽ qua đi, nhưng những chiến công anh hùng và sự hy sinh cao cả của các lực lượng mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu trên Biển Đông, của các “con tàu không số”, của quân và dân các bến bãi, làm nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại sẽ mãi mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc ta…”6.

Đường Hồ Chí Minh trên biển cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn hùng vĩ đã tạo nên hai tuyến vận tải quân sự, giải quyết kịp thời nhu cầu của hai hướng chiến lược trên chiến trường Nam Bộ là cánh Đông và cánh Tây; chi viện hiệu quả sức người, sức của cho quân và dân miền Nam; thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trải qua 60 năm, việc lãnh đạo, chỉ đạo mở Đường Hồ Chí Minh trên biển của Trung ương Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng để lại nhiều bài học quý cần nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá, PGS, TS. NGUYỄN VĂN SÁU, Phó Viện trưởng, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
___________________

1 - Năm 1961, Tổng Quân ủy đổi tên thành Quân ủy Trung ương.

2 - Bộ Tư lệnh Hải quân – Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955 - 2005), Nxb QĐND, H. 2005, tr. 107.

3 - Tập san quốc phòng ngụy, số 18, tr. 22 (Tài liệu lưu tại Thư viện Quân đội).

4 - Vận chuyển 150.000 tấn vũ khí, trang bị, chở 80 nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ; khắc phục hơn 400 quả thủy lôi; chống chọi hơn 20 cơn bão; 300 lần chiến đấu với tàu địch; đánh trả 1.200 lần, bắn rơi 05 máy bay địch, v.v.

5 - Võ Nguyên Giáp – Đường Hồ Chí Minh một sáng tạo chiến lược của Đảng, Nxb QĐND, H. 1999, tr. 24.

6 - Điện của Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 125 nhân kỷ niệm 35 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển (1961 - 1996), Lưu trữ tại Văn phòng Đảng ủy Quân chủng Hải quân.

Ý kiến bạn đọc (0)