QPTD -Thứ Năm, 24/09/2020, 09:08 (GMT+7)
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân

Dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, là phương thức để thực hiện quyền lực của nhân dân trong quản lý Nhà nước và tổ chức đời sống xã hội. Nội dung phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện đầy đủ trong Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII của Đảng, là quan điểm nhất quán của Đảng ta.

Nắm vững quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân trong quá trình phát triển của mỗi cộng đồng quốc gia - dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng, dân chủ có nghĩa là “dân là chủ”“dân làm chủ”. Dân là chủ chỉ rõ vị thế của dân, dân làm chủ chỉ rõ trách nhiệm của dân trong đời sống xã hội. Vị thế và trách nhiệm của nhân dân đã được thiết kế, đưa vào Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước ta; đồng thời, được bảo vệ và bảo đảm thực thi trong thực tế. Tiếp cận dưới góc độ quyền con người thì dân chủ là một thuộc tính quyền con người trong xã hội, là khát vọng ngàn đời của con người. Xây dựng, củng cố và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là để đáp ứng khát vọng của nhân dân, đó còn là sự phản ánh bản chất của chế độ chính trị ở Việt Nam, được thiết lập từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, ngày 02/9/1945 đến nay.

Trên cơ sở đánh giá tổng quát kết quả củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời, bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII của Đảng đã trình bày khái quát những quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp rất cơ bản, có tính chất chỉ đạo thực hiện phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, trên một số nội dung chủ yếu sau:

1. Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp năm 2013; thực hiện có hiệu quả trong thực tế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Hình thức dân chủ đại diện là hình thức phổ biến ở nước ta, có trong cơ chế vận hành hoạt động của hệ thống chính trị các cấp, nhất là đối với chính quyền Nhà nước; còn hình thức dân chủ trực tiếp được thể hiện nhiều ở cấp cơ sở. Do vậy, việc cụ thể hóa vấn đề dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ cơ sở theo Cương lĩnh chính trị của Đảng và Hiến pháp năm 2013 là hết sức cần thiết. Đối với cấp cơ sở, vấn đề dân chủ đã được Đảng và Nhà nước ta chú ý từ rất sớm, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở; ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) ban hành Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, v.v. Kết quả thực hiện trên thực tế những năm qua đã hạn chế được tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực ở cơ sở, tập hợp và khơi dậy sức dân, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền làm chủ của người dân ngày càng được phát huy. Kết quả xây dựng cuộc sống ở cơ sở trong những năm qua là biểu hiện sinh động của việc thể chế hóa và thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; đồng thời, từng bước đẩy mạnh thực hiện “dân giám sát, dân thụ hưởng”. Qua đó, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; trở thành động lực để tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh tổng hợp, phát huy sức sáng tạo trong nhân dân, góp phần quan trọng vào thực hiện đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, việc thực hiện dân chủ cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót: quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm, biểu hiện rõ nhất là tình trạng bức xúc của nhân dân dẫn tới các vụ việc khiếu kiện đông người diễn biến ngày càng phức tạp, trong đó có khoảng 70% liên quan đến vấn đề đất đai do chính quyền các cấp không giải quyết tốt; một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết kịp thời những quyền lợi hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân.

Để dân chủ được bảo vệ, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, cần tiếp tục cụ thể hóa, rà soát, sơ kết, tổng kết, bổ sung và hoàn thiện các thiết chế về xây dựng và phát huy dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng. Bởi, cơ sở là cấp cuối cùng trong bộ máy hệ thống chính trị ở nước ta; thời gian qua, đã có một số hình thức thực hành dân chủ trực tiếp, cần phải tiếp tục thực hiện theo lộ trình vững chắc và hiệu quả để từng bước đẩy mạnh dân chủ trực tiếp; có thể tiến hành thí điểm, khi đem lại hiệu quả một cách chắc chắn, được tổng kết, rút kinh nghiệm, có căn cứ lý luận và thực tiễn phù hợp thì áp dụng rộng rãi ở cơ sở trong cả nước. Như vậy, nếu áp dụng hình thức dân chủ trực tiếp đúng, phù hợp thì việc kiểm tra, giám sát của nhân dân sẽ có hiệu quả hơn, điều đó giúp cho hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh hơn và dân chủ sẽ được phát huy cao hơn, quyền làm chủ của nhân dân được bảo vệ và bảo đảm tốt hơn. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng, với sự phát triển rất mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay, càng cần phải chú ý hơn nữa hình thức dân chủ trực tiếp; đây là biểu hiện rõ nhất quyền lực tối cao của người dân trong mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, mọi quy định và hành động của tổ chức chính trị và chính trị - xã hội nếu vi phạm quyền làm chủ của dân, dù là nhỏ cũng sẽ trở thành lực cản trong thực hiện phát huy dân chủ, cần phải nghiêm túc kiểm điểm, có biện pháp khắc phục kịp thời và triệt để.

2. Các tổ chức trong hệ thống chính trị; đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức phải nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải tạo nền tảng chính trị, pháp lý để nhân dân thực hiện quyền làm chủ; hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo phải tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ phải được thể hiện bằng thể chế và thực hành trong thực tế. Điều đó đòi hỏi dân chủ phải được thể hiện, thể chế hóa trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Việt Nam. Đối với cấp cơ sở, đó là những quy định đúng đắn, phù hợp trong nội bộ nhân dân ở các cộng đồng dân cư. Trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay, yêu cầu xây dựng, củng cố và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, trước tiên phải bắt đầu từ dân chủ trong Đảng, còn nếu dân chủ trong Đảng không được bảo đảm thì không thể phát huy dân chủ trong xã hội. Do vậy, cán bộ, đảng viên của Đảng và đội ngũ cán bộ trong bộ máy của hệ thống chính trị phải là gương sáng, gương mẫu về thực hành dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước với bản chất và nguồn gốc xuất xứ, vốn có chức năng cai trị của một giai cấp, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, thì việc thể hiện điều đó bằng chức năng quản lý, quản trị, phục vụ nhân dân. Trong đó, Chính phủ với vị trí, vai trò là cơ quan hành chính cao nhất trong quyền lực Nhà nước, phải trở thành Chính phủ kiến tạo, đề ra và tổ chức thực hiện thắng lợi chính sách quốc gia trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng và nghị quyết của Quốc hội.

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa còn phụ thuộc vào sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, của thành viên trong tất cả các tổ chức của hệ thống chính trị. Các tổ chức đảng, cũng như các tổ chức và từng thành viên trong bộ máy của hệ thống chính trị phải có trách nhiệm nêu gương; trong đó, cán bộ chủ chốt phải khẳng định được trên thực tế bằng hành động nêu gương của mình. Không để xảy ra hiện tượng xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng; luôn giáo dục, tổ chức, giác ngộ nhân dân, không theo đuôi quần chúng. Chống thái độ mị dân, lừa dân, dọa nạt dân, chạy theo lợi ích tầm thường,… những hiện tượng đó là lực cản, thậm chí là kẻ thù của dân chủ.

Nhân dân vốn được thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta nâng lên ở vị thế là người chủ và trao cho trách nhiệm người làm chủ, nên cần có chính sách giáo dục, nâng cao ý thức làm chủ của người dân. Dân chủ bao giờ cũng phản ánh cái cốt vật chất chế độ chính trị của quốc gia, tức là phản ánh trình độ và tính chất của xã hội. Mà cái cốt vật chất ấy là sự tổng hòa của nhiều yếu tố; trong đó, Đảng ta, với tư cách là người cầm quyền, chịu trách nhiệm lớn nhất và chịu trách nhiệm cuối cùng trong xã hội, phải luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân.

3. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức. Nhân dân là người chủ đất nước, giữ vị trí trung tâm của quyền lực, mọi quyền lực tối cao đều thuộc về nhân dân. Do đó, cần vận động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị, các thiết chế bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Điều này đã được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và quy định của các tổ chức chính trị - xã hội. Vì vậy, cần tiếp tục rà soát, cụ thể hóa để nhân dân ngày càng phát huy tính tích cực trong tham gia hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật, các quy định quản lý của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Mọi hoạt động của đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức cần đặt dưới sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhân dân; do vậy, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia công việc quan trọng này. Sức mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị, sự trong sạch, vững mạnh của đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức chính là lấy từ sức mạnh của nhân dân; mọi thái độ coi thường dân, hời hợt trong công tác dân vận, cũng như tinh thần kém trách nhiệm đối với dân sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Hồ Chí Minh cho rằng: “quần chúng tinh lắm, quần chúng biết phân biệt thật giả. Dân sợ mình thù mà không dám nói đó thôi”1 và “dân biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết”2. Điều đó còn được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, khẳng định: “Phải dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”3 và “ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”4.

4. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại quyền làm chủ của nhân dân. Phải bảo đảm quyền làm chủ thực sự của người dân trên mọi phương diện, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; đồng thời, dân chủ phải đi liền với kỷ cương. Kỷ cương/kỷ luật là biểu hiện của tự do thực sự, đúng theo nghĩa vận hành trong một xã hội lành mạnh. Dân chủ không có gì chung với độc tài. Điều đó có nghĩa là dân chủ không phải là tự do tuyệt đối, mà phải trong khuôn khổ nhất định, phù hợp với quy luật của xã hội. Tự do như thế là tự do nhận thức và hành động theo cái tất yếu, tức là suy nghĩ và hành động theo đúng quy luật khách quan. Nếu làm trái với quy luật khách quan, trái với những quy ước đúng của cộng đồng quốc gia - dân tộc, không những làm ảnh hưởng tiêu cực đến tự do của những người xung quanh, của toàn xã hội, mà còn tự làm mất tự do của chính mình. Cần phải phê phán nhận thức và biểu hiện phản dân chủ, như: “tự do vô chính phủ”, “tự do vô kỷ luật”. Hồ Chí Minh đã đề cập một cách rất biện chứng quyền tự do trong quan hệ với vấn đề chân lý: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”5.

Hiện nay, khi dân chủ được mở rộng, bảo đảm và phát huy; với sự phát triển của công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội tác động không nhỏ tới hình thức thể hiện tự do dân chủ của con người, nhất là trên không gian mạng có cả mặt tích cực và tiêu cực, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phần tử chống đối lợi dụng tự do, dân chủ để lôi kéo, kích động người dân thực hiện nhiều hoạt động làm tổn hại đến nền dân chủ đang được xây dựng, củng cố và phát triển. Do đó, cùng với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn với kỷ cương, pháp luật, không cho phép ai lợi dụng dân chủ để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Quyền dân chủ, quyền tự do ngôn luận bao giờ cũng phải đi liền với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân. Đây chính là nhận thức lành mạnh cho tự do dân chủ và là điều cần thiết để bảo đảm dân chủ của xã hội vì lợi ích quốc gia, bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng dân cư.

Đại hội XIII của Đảng là dịp sinh hoạt dân chủ cao nhất, tập trung nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Với những kết quả đã đạt được, Đảng sẽ tiếp tục lãnh đạo phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG
_________________   

1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 370.

2 - Sđd, Tập 15, tr. 526.

3 - Nguyễn Phú Trọng – Quyết tâm găn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb CTQG, H. 2019, tr. 116.

4 - Sđd, tr. 116.

5 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 378.

 

 

Ý kiến bạn đọc (0)

Chỉ thị của Bộ Chính trị về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
Ngày 9/3/2021, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Chỉ thị của Bộ Chính trị tới các cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp, các ngành về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn Chỉ thị.