QPTD -Thứ Hai, 24/08/2015, 08:46 (GMT+7)
Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng

Cách mạng Tháng Tám là mốc son đánh dấu thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đưa Đảng ta trở thành đảng cầm quyền, tạo ra thế và lực mới để Đảng lãnh đạo nhân dân giành những thắng lợi to lớn hơn. Trước sự phát triển của thực tiễn, đòi hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao năng lực cầm quyền, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Ảnh minh họa

Đảng Cộng sản cầm quyền” là thuật ngữ dùng để chỉ giai đoạn Đảng Cộng sản đã giành được chính quyền, lãnh đạo chính quyền để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Đó là mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được vai trò đó, đòi hỏi Đảng phải có phẩm chất, bản lĩnh, trí tuệ đáp ứng yêu cầu về năng lực của đảng cầm quyền. Cho đến nay, còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm “năng lực cầm quyền của Đảng”, song khái quát, đó chính là năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội (được hiến định tại Hiến pháp năm 2013) nhằm xây dựng, phát triển đất nước theo con đường, mục tiêu mà Đảng đã xác định, được thực hiện thông qua đội ngũ đảng viên nắm giữ các vị trí trong hệ thống chính trị.

 Theo đó, năng lực cầm quyền của Đảng được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau: 1. Khả năng của Đảng trong xây dựng Cương lĩnh chính trị, hoạch định đường lối sát, đúng, có tính khả thi cao. 2. Khả năng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, nghị định,… theo đúng quan điểm của Đảng, làm cơ sở pháp lý để tổ chức thực hiện trong toàn xã hội. Đây là vấn đề rất quan trọng, thể hiện rõ vai trò, năng lực cầm quyền của Đảng. 3. Khả năng lãnh đạo sử dụng quyền lực của Nhà nước và phát huy vai trò các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đã đề ra. Vấn đề này có tính quyết định, là thước đo trên thực tế năng lực cầm quyền của Đảng. Đồng thời, thể hiện sự đồng tình, suy tôn của các tổ chức trong hệ thống chính trị đối với vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng. Không thực hiện được điều này thì dù Đảng có năng lực đề ra đường lối, chính sách đúng đến đâu cũng không có tác dụng. 4. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị. 5. Tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn để không ngừng hoàn thiện đường lối.

Thực tiễn đã chứng minh, với đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực, toàn tâm, toàn ý với sự nghiệp cách mạng, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, hy sinh cống hiến vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nên Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân tin tưởng, gửi gắm, trao cho sứ mệnh là người lãnh đạo cách mạng, duy nhất cầm quyền ở nước ta. Với vị thế là đảng cầm quyền, Đảng thực sự xứng đáng là người “đứng mũi chịu sào” trước dân tộc, đã lãnh đạo chính quyền tổ chức nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đạt nhiều thành tựu to lớn. Đó là sự xác nhận thực tiễn về năng lực cầm quyền của Đảng.

Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, công kích, chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng từ nhiều phía, ngày càng gay gắt. Một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng tham nhũng, lãng phí, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm,… gây nên những bất bình trong nhân dân, thì vấn đề nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng đang đặt ra những đòi hỏi cấp bách, cần được nghiên cứu làm rõ và đề ra các giải pháp hữu hiệu. Việc Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XII xác định: “Nâng cao năng lực cầm quyền, năng lực hoạch định đường lối, chính sách của Đảng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả,…”1, là chủ trương đúng, khoa học, kịp thời, tạo sự thống nhất về nhận thức, đề cao trách nhiệm của các tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng Đảng. Chúng ta nhất trí cao với điều đó; đồng thời, làm rõ thêm một số vấn đề có tính nguyên tắc để tiếp tục giữ vững, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.

Một là, nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Thiếu bản lĩnh chính trị, xa rời bản chất giai cấp công nhân, Đảng dễ sai lầm, chệch hướng, khó vượt qua thử thách, trở ngại để đi tới thành công. Vì vậy, vấn đề hàng đầu là Đảng phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách nào cũng phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng và được thực tiễn kiểm nghiệm. Trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, Đảng phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp thu những kinh nghiệm, tri thức của nhân loại, tham khảo kinh nghiệm các Đảng Cộng sản trên thế giới để áp dụng vào thực tiễn cách mạng nước ta; kiên quyết giữ vững nguyên tắc lãnh đạo trong mọi điều kiện, hoàn cảnh và giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

Hai là, nâng tầm trí tuệ, không ngừng phát triển tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng thì đội ngũ cán bộ, đảng viên và Đảng cần có tri thức khoa học cao, nhất là khoa học chính trị, làm cơ sở để đề ra đường lối, chính sách đúng, có tính khả thi cao. Đó cũng là điều kiện để Đảng có bản lĩnh chính trị độc lập, vững vàng, không lúng túng trước khó khăn, thử thách; không dao động trước sự tiến công, xuyên tạc từ bên ngoài; là phương thức hiệu quả nhất để khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội, bảo thủ và xét lại. Yêu cầu cấp bách hiện nay là, Đảng phải mau chóng khắc phục sự lạc hậu về nhận thức lý luận, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn nhằm bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh lên tầm cao mới. Trong đó, tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về vấn đề đảng cầm quyền; cơ sở lý luận và thực tiễn của đường lối đổi mới trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu, rộng, v.v. Đội ngũ đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự giác học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chức trách được giao. Cùng với đó, Đảng cần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, đào tạo, nghiên cứu lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, lấy thực tiễn làm cơ sở; đẩy mạnh đấu tranh bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, trước hết là những nhận thức, quan điểm lệch lạc, giản đơn, duy ý chí, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thúc đẩy lý luận phát triển ngày càng sắc sảo, có sức thuyết phục cao.

Ba là, tích cực đổi mới, chỉnh đốn Đảng ngang tầm trọng trách cầm quyền. Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Đảng ta phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để tránh sai lầm, khuyết điểm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn. Đó là việc Đảng quyết tâm từ bỏ những lạc hậu, lỗi thời, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, giữ vững và tăng cường mối liên hệ máu thịt với nhân dân, vững vàng trước mọi thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi. Đây là bài học lớn, là vấn đề sống còn, có quan hệ đến sự ổn định và phát triển lâu dài của đất nước và vận mệnh của Đảng. Vì vậy, Đảng cần tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng,... xứng đáng là người lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Toàn Đảng cần đẩy mạnh khắc phục khuyết điểm đã được chỉ ra sau kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng gắn với tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI). Đồng thời, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở tất cả các cấp, các ngành; duy trì nghiêm các chế độ, nền nếp sinh hoạt, phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân trong công tác xây dựng Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần gương mẫu, nói đi đôi với làm, chấp hành nghiêm Quy định về những điều đảng viên không được làm, thực sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trọng tâm là phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước. Hiện nay, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền rất nặng nề, thực hiện trong điều kiện thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen. Đảng không thể sử dụng phương thức lãnh đạo cũ để giải quyết những nhiệm vụ mới trong điều kiện mới. Vì vậy, đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, mà trọng tâm là đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước là nhiệm vụ trọng yếu của Đảng và của công tác xây dựng Đảng. Việc đổi mới phải đạt được mục tiêu, yêu cầu là, Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng không làm thay công việc của Nhà nước; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân để Nhà nước có đủ khả năng thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành luật pháp, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và tổ chức thực hiện thắng lợi. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đẩy mạnh việc xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Qua đó, góp phần giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội, tạo môi trường thuận lợi để nước ta phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên - nhân tố đặc biệt quan trọng, tạo nên năng lực cầm quyền của Đảng. Nhận thức rõ vấn đề này, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuy vậy, chất lượng đội ngũ đảng viên vẫn còn có hạn chế nhất định, đặc biệt là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, làm ảnh hưởng đến uy tín và năng lực cầm quyền của Đảng.  Vì vậy, Đại hội XII cần tiếp tục xác định chủ trương, giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất và năng lực. Trong đó, thực hiện Chỉ thị 03 và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) phải được coi là một giải pháp thường xuyên, hữu hiệu; đồng thời, thực hiện tốt các nguyên tắc, quy trình trong công tác cán bộ, công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, gắn xây dựng đội ngũ đảng viên với đội ngũ cán bộ, xây dựng cấp ủy với cán bộ chủ trì các cấp. Bên cạnh việc tăng cường phát triển đảng viên, kết nạp những người ưu tú trong các tầng lớp nhân dân để bổ sung cho Đảng nguồn nhân lực cao, tố chất mới, trẻ hoá Đảng, thì các cấp ủy, tổ chức đảng phải làm tốt việc thanh lọc đội ngũ đảng viên, mạnh dạn cắt bỏ khỏi cơ thể Đảng những tế bào thoái hóa, biến chất, kiên quyết đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Có như vậy, mới đảm bảo cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, năng lực cầm quyền, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.

TS. LÂM QUỐC TUẤN, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
_______________

1 - ĐCSVN - Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở), 02-2015, tr. 35.

Ý kiến bạn đọc (0)