QPTD -Thứ Tư, 29/11/2017, 09:34 (GMT+7)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ của Đảng, cho đó là “cái gốc” của sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng của Người mãi mãi là kim chỉ nam đối với công tác cán bộ của Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu dự Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất, ngày 01-5-1952. (Ảnh tư liệu)

Quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đến năm 1920, bắt gặp Luận cương của Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã sung sướng khôn cùng. Từ đây con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam đã được định hình. Để con đường đó thành hiện thực, một trong những vấn đề Người đặc biệt quan tâm là tuyển chọn, đào tạo cán bộ chuẩn bị cho sự thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Đầu năm 1941, trước khi về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tại Tĩnh Tây (Trung Quốc), Người tổ chức một lớp huấn luyện chính trị cho hơn 40 thanh niên yêu nước làm nòng cốt xây dựng lực lượng và căn cứ địa chuẩn bị cho khởi nghĩa. Trong thời gian ở Pác Bó, Bác vừa chuẩn bị văn kiện cho Hội nghị Trung ương 8, vừa huấn luyện nhiều khóa cán bộ, xây dựng thí điểm Mặt trận Việt Minh. Trong các lớp huấn luyện cán bộ, Bác chỉ dẫn và yêu cầu người học phải chú trọng gắn lý luận với thực tiễn, nhất là trong tuyên truyền vận động nhân dân tham gia cách mạng. Từ Cao Bằng, Mặt trận Việt Minh phát triển rộng khắp cả nước với sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân, trở thành một cao trào cách mạng mạnh mẽ đủ sức phá tan gông cùm, xiềng xích của thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với vô vàn khó khăn, thách thức do thù trong, giặc ngoài và cả “giặc đói”, “giặc dốt”, v.v. Trên cương vị Chủ tịch nước, Bác cùng với chính quyền cách mạng non trẻ đã bình tĩnh, tự tin chèo lái “con thuyền cách mạng Việt Nam” vượt qua mọi trở ngại, vững bước tiến lên. Một trong những nhân tố quyết định thành công là do Đảng ta với tầm nhìn chiến lược, thống nhất với tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, kịp thời xây dựng được đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ “nước sôi, lửa bỏng” này. Điều đó được thể hiện rất rõ trong Hồ Chí Minh Toàn tập. Ở lần xuất bản thứ ba (năm 2011), bộ sách có 15 tập, gồm các tác phẩm, bài nói, bài viết, thư của Người từ năm 1912 đến 1969. Trong đó, danh từ “cán bộ” ở các tập đầu (giai đoạn từ 1912 đến tháng 8-1945) được Người sử dụng theo hướng tăng dần, cụ thể: Tập 1 có 6 lần, Tập 2: 4 lần, Tập 3: 30 lần và ở Tập 4 (giai đoạn từ tháng 9-1945 đến tháng 9-1946): 24 lần; đặc biệt từ Tập 5, xuất hiện với tần suất dày đặc: Tập 5 là 454 lần, Tập 6: 298 lần, Tập 7: 394 lần, Tập 8: 428 lần, Tập 9: 310 lần. Điều đó chứng tỏ trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, Người càng chú trọng hơn đến cán bộ và công tác cán bộ của Đảng. Bằng kinh nghiệm học hỏi từ các nước anh em khi bôn ba hải ngoại và tích lũy trong thực tiễn lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chủ tịch đã dành nhiều thời gian, trí lực để đào tạo đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng. Tư tưởng của Bác về công tác cán bộ thể hiện rất rõ trong Tập 5 (giai đoạn 1947-1948) khi Người viết “Sửa đổi lối làm việc” và tiếp tục được làm rõ, cụ thể hơn đối với từng cấp, ngành, giới khi Bác đến thăm, nói chuyện, viết thư động viên, v.v.

Khái niệm về cán bộ được Hồ Chủ tịch nêu lên lần đầu tiên trong dịp thăm tỉnh Thanh Hóa, ngày 20-02-1947: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”1, với cách đánh giá như vậy, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (10-1947), Người đúc rút: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định” và dành toàn bộ phần IV để viết về vấn đề cán bộ. Trong công tác cán bộ, yêu cầu đầu tiên của Hồ Chủ tịch là phải vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào việc xem xét, đánh giá cán bộ. Đó là quan điểm khách quan, bởi nếu không thì “cũng như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông”2; quan điểm phát triển “Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa”3; quan điểm lịch sử, cụ thể “Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”4. Người yêu cầu phải biết phân tích bản chất và hiện tượng, bên trong và bên ngoài của một con người khi thực hiện các công việc khác nhau trong cả một giai đoạn dài: “Xem xét cán bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ”5. Cùng với đó, Người dẫn chứng rất cụ thể một số biểu hiện của người tốt, người không tốt, thậm chí là tay sai của địch; trong đó, tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt cán bộ tốt là “cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không”6. Với quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ như vậy không những đánh giá, sử dụng đúng cán bộ mà còn khắc phục được những căn bệnh, khuyết điểm chủ quan thường mắc trong công tác cán bộ.

Trên cơ sở đánh giá đúng cán bộ, còn phải “khéo dùng cán bộ” - “dụng nhân như dụng mộc” mới có thể đem lại hiệu quả cao cho công việc và “thực hành đầy đủ chính sách của Đảng và Chính phủ”. Người đưa ra 3 tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ: trung thành với cách mạng; liên hệ mật thiết với quần chúng và vì lợi ích của quần chúng; đồng thời, cán bộ còn phải là người dám làm, dám chịu trách nhiệm, không sợ khó khăn, gian khổ. Quan điểm xuyên suốt của Hồ Chủ tịch trong sử dụng cán bộ là phải khách quan, công khai, dân chủ và vì hiệu quả công việc; phải bàn bạc hỏi ý kiến mọi người, thậm chí, ngay với bản thân người định trao công việc xem có thể đảm nhiệm và phấn khởi thực hiện không? Chỉ có như vậy mới luôn dùng đúng người, đúng việc, đúng năng lực, sở trường, phát huy cao nhất năng lực của mỗi người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy”7. Bất cứ vấn đề gì Hồ Chủ tịch cũng suy xét kỹ cả tác động theo chiều thuận và chiều ngược để có biện pháp khắc phục, đôi khi chế phục không cho tác động xấu xảy ra. Do đó, việc tổ chức lựa chọn cán bộ một cách dân chủ, vì hiệu quả công việc còn đạt được mục đích là giúp cho người lãnh đạo tránh được những căn bệnh ham dùng người thân, ham dùng những kẻ nịnh hót và căn bệnh hẹp hòi làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, thấu hiểu nhân tình, thế thái, nên Hồ Chủ tịch phát triển kinh nghiệm dùng người của các bậc tiền nhân một cách rất biện chứng và nhân văn: “Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người sửa chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, đều tùy chỗ mà dùng được”8. Bởi vì, tuy nói “tùy tài mà dùng người”, nhưng năng lực của mỗi người không phải tự nhiên mà có, phần nhiều tích lũy được qua rèn luyện, phấn đấu, nên quá trình sử dụng phải biết tạo điều kiện để cán bộ phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, nếu không vừa hỏng việc vừa mất cán bộ: “Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”9.

Muốn dùng cán bộ lâu dài, đạt hiệu quả vừa phải có tinh thần đấu tranh phê bình vừa phải biết yêu thương cán bộ. Bằng sự từng trải, Hồ Chủ tịch cho rằng, có làm việc thì có sai lầm, vấn đề là phải phê bình cho đúng và kịp thời để người cán bộ dễ dàng nhận ra và vui vẻ sửa chữa. Phê bình cho đúng tức là không nên nặng lời, công kích mà bằng thái độ chân thành cùng với họ phân tích nguyên nhân và hậu quả của sai lầm đó, làm cho người mắc sai lầm tự nhận rõ để sẵn sàng khắc phục, không có cảm giác bị ép buộc phải sửa chữa. Kịp thời là “hễ thấy cán bộ sai lầm, phải lập tức sửa chữa ngay”, không để xảy ra sai lầm lớn. Nếu để xảy ra lầm lỗi lớn mà không xử phạt thì sẽ mất sự tôn nghiêm của kỷ luật, mà xử phạt thì làm cho người đó “mất cả lòng tự tin, người hăng hái cũng hóa thành nản chí, từ nản chí đi đến vô dụng”10. Như vậy, quan điểm về phê bình cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tính nhân văn sâu sắc và tình thương đối với cán bộ. Người cho rằng: “Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt. Nhưng cần phải công tác, tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được. Trái lại, trong lúc tranh đấu, rất dễ mất một người cán bộ”11. Theo Hồ Chủ tịch, phê bìnhyêu thương có sự tác động với nhau một cách biện chứng: “Thương yêu là luôn luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ. Hễ thấy khuyết điểm thì giúp cho họ sửa chữa ngay”12. Người còn cho rằng, thương yêu là tạo điều kiện để cán bộ học tập nâng cao trình độ và cơ hội cống hiến; đồng thời, quan tâm giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống để yên tâm công tác.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ đến nay còn nguyên giá trị. Tư tưởng của Người soi rọi qua tất cả các khâu, các bước của quy trình công tác cán bộ, từ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, nhận xét, đề bạt, luân chuyển đến chính sách cán bộ và được vận dụng một cách thiết thực trong từng giai đoạn cách mạng. Nếu vận dụng tốt tư tưởng đó của Người sẽ giúp sửa chữa hiệu quả những hạn chế, bất cập, như: “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi”13 đúng như Văn kiện Đại hội XII đã chỉ ra.

Học tập tư tưởng của Hồ Chủ tịch trong công tác cán bộ, trước hết cần phải đổi mới công tác đánh giá cán bộ. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần nghiên cứu bổ sung các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ, bảo đảm thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ. Cấp ủy, cán bộ chủ trì từng cơ quan, đơn vị cần đề cao trách nhiệm trong quản lý đội ngũ cán bộ; quản lý một cách toàn diện, cả về tư tưởng, đạo đức, lối sống, năng lực chuyên môn, sức khỏe, tâm tư, nguyện vọng và tình hình gia đình cán bộ, làm cơ sở để quy hoạch, nhận xét, đánh giá, đề bạt cán bộ. Trên cơ sở hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn, chức danh, chức vụ cho từng loại cán bộ đã được cấp có thẩm quyền ban hành, đặc biệt là các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra. Trong đó, cần bảo đảm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phải lấy chất lượng, hiệu quả công tác, nhất là sự tín nhiệm của quần chúng làm tiêu chí chính. Ngoài ra, nhận xét cán bộ trong các lĩnh vực mang tính đặc thù cần chính xác, nhưng không cứng nhắc so với hệ thống tiêu chí chung.

Để khéo dùng cán bộ theo quan điểm của Bác, yêu cầu đầu tiên là đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, người làm công tác tổ chức cán bộ phải thực sự có đức, có tài, vô tư, trong sáng, biết quan tâm và yêu thương cán bộ. Các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc, quy trình, quy định trong công tác cán bộ, bảo đảm dân chủ, minh bạch. Tuyển chọn cán bộ cho một vị trí cần phải có nhiều ứng viên đáp ứng đầy đủ tiêu chí theo quy định, sau đó lựa chọn bằng cách tổ chức thi tuyển hoặc lấy phiếu tín nhiệm rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Các bộ, ban, ngành, địa phương cần tổ chức thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) để phát hiện và kiểm nghiệm năng lực thực tế của cán bộ ở các vị trí khác nhau, làm cơ sở cho việc đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ.

Cùng với đó, phải thực hiện tốt việc kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, uốn nắn những sai phạm, tránh hỏng việc, mất cán bộ; động viên, khen thưởng đối với những cán bộ tích cực, có thành tích tốt. Phải kiên quyết xử lý, thậm chí loại ra khỏi tổ chức những cán bộ coi thường kỷ cương hoặc sai phạm có tính hệ thống. Đi đôi với đấu tranh phê bình, phải có lòng yêu thương cán bộ, thường xuyên rà soát, bổ sung và tổ chức thực hiện tốt các chế độ, chính sách, quan tâm đến đời sống, hậu phương cán bộ.

Thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên là hành động thiết thực trong việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng “vừa hồng”, “vừa chuyên”, xứng đáng với vai trò nòng cốt trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá NGUYỄN CÔNG TÂM
___________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 68.

2, 3, 4, 5, 6 - Sđd, tr. 317, 317, 318, 318, 314.

7 - Sđd - Tập 4, tr. 43.

8 - Sđd, Tập 5, tr. 88.

9, 10, 11, 12 - Sđd, tr. 322, 322, 322, 323.

13 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 194. 

Ý kiến bạn đọc (0)

Tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà đặc biệt là tự phê bình và phê bình, được Người đề cập và xác định là việc làm trước tiên sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi. Những di huấn quan trọng này của Người vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.