Bình luận - Phê phán Phòng, chống "DBHB"; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng

QPTD -Thứ Hai, 10/02/2014, 08:08 (GMT+7)
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội - điều không thể bác bỏ
Ảnh minh họa.

Việc hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội trong Hiến pháp năm 2013 là tất yếu lịch sử, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Bởi nó xuất phát từ bản chất, vai trò, uy tín của Đảng, được nhân dân tin tưởng, lựa chọn và ủy thác. Đó là điều không thể bác bỏ!

Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã được Quốc hội (khóa XIII), Kỳ họp thứ sáu thông qua ngày 28-11-2013, có hiệu lực từ ngày 01-01-2014. Đây là sự kiện quan trọng, nổi bật trong đời sống chính trị của nhân dân ta. Bản Hiến pháp năm 2013 là kết tinh trí tuệ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực sự thể hiện được lợi ích, quyền lực, ý chí của toàn dân đối với chính thể dân chủ, Nhà nước và chế độ XHCN do mình góp sức xây dựng và làm chủ. Trong đó, Điều 4, Chương I (về chế độ chính trị) của Hiến pháp đã hiến định vai trò của Đảng, khẳng định địa vị pháp lý của Đảng chính trị cầm quyền, đảm nhận trọng trách lịch sử mà dân tộc và nhân dân giao phó - đó là Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam - lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

Việc thừa nhận, khẳng định ĐCS Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là sự thừa nhận một thực tế, khẳng định một tất yếu lịch sử trong đời sống chính trị nước ta. Tất yếu lịch sử đó, chính là tất yếu của sự phát triển theo mục tiêu, lý tưởng: độc lập dân tộc và CNXH, gắn liền với bản chất, sứ mệnh lịch sử của Đảng trước nhân dân. Điều này đã được lý luận về chính đảng cũng như thực tế lịch sử dân tộc và cách mạng nước ta minh chứng. ĐCS Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng là một tất yếu khách quan, là đòi hỏi của lịch sử, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Chỉ có ĐCS mang bản chất của giai cấp công nhân - đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc mới là lực lượng cách mạng chân chính, triệt để nhất, phấn đấu dũng cảm, hy sinh vì dân, vì nước; một lòng, một dạ trung thành với lý tưởng, tận tụy phục vụ nhân dân. Và, chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng là lực lượng tiên phong lãnh đạo vì độc lập dân tộc và CNXH thì nhân dân ta mới được giải phóng khỏi tình cảnh nô lệ, bị bóc lột, áp bức bởi đế quốc thực dân, phong kiến; mới trở thành người chủ, được thụ hưởng tự do và hạnh phúc trong một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Đảng làm cách mạng với mục tiêu xuyên suốt: vì dân. Mục đích và động cơ ấy là cao thượng, vĩ đại. Cán bộ, đảng viên suốt đời làm người công bộc tận tụy, đầy tớ trung thành của nhân dân như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính vì vậy mà dân sáng suốt lựa chọn ĐCS và chỉ phó thác cho ĐCS mà thôi. Thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng oanh liệt đầy gian khổ, hy sinh của Đảng, từ khi ra đời cho đến nay, càng minh chứng cho sự lựa chọn, ủy thác của lịch sử, dân tộc và nhân dân ta đối với Đảng của mình là hoàn toàn đúng đắn. Với tư cách Đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền, bắt đầu từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, năm 1945 và sự kiện Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh chế độ dân chủ cộng hòa. Từ đây, Đảng chính thức ở vào vị thế Đảng cầm quyền để thực thi sứ mệnh, trọng trách lãnh đạo dân tộc và nhân dân; lãnh đạo Nhà nước và xã hội đạt tới "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ, phát huy hết tài năng, sáng kiến, tính chủ động lịch sử của mình trong giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đi lên CNXH, xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa theo đúng mục tiêu, lý tưởng: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đây là những giá trị cốt lõi của phát triển dân tộc Việt Nam mà Đảng ra sức lãnh đạo nhân dân thực hiện. Cũng từ trải nghiệm thực tế lịch sử, kinh qua đấu tranh cách mạng mà dân tộc Việt Nam thấu hiểu giá trị thực tế của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là thành quả vĩ đại của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" đã trở thành chân lý lớn nhất của lịch sử, không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận.

ĐCS Việt Nam chẳng những là lực lượng tiên phong lãnh đạo nhân dân và dân tộc ta làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Giải phóng dân tộc trước đây, mà còn đạt được thành tựu có tầm vóc lịch sử của công cuộc đổi mới, CNH,HĐH hiện nay. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, có quan hệ quốc tế rộng rãi, vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Có được thành công đó, là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, gắn liền với trí thông minh, tài sáng tạo, đức hy sinh vô bờ bến của toàn dân; là kết quả của sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân, giữa dân với Đảng. Sự thật lịch sử ấy, không chỉ vĩ đại, mà còn cảm động; đồng thời, khẳng định, quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân là nhân tố làm nên sự vĩ đại và cảm động ấy. Ý Đảng bắt nguồn và đồng thuận với lòng dân; lòng dân được thể hiện chân thực, sâu sắc trong nỗ lực trí tuệ, khoa học của Đảng, trong trách nhiệm và quyết tâm chính trị trước nhân dân, trở thành quyết định đường lối, chính sách và hành động của Đảng, để Đảng vì dân.

Ý Đảng - lòng dân - phép nước hòa quyện đã làm nên sức mạnh của đồng tâm nhất trí, đồng lòng, đồng thuận để thành công. Do đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội được hiến định trong Hiến pháp chính là sự thừa nhận và khẳng định của nhân dân về địa vị pháp lý lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; thể hiện uy tín, ảnh hưởng của Đảng trong lòng dân, là tôn trọng một sự thật lịch sử, là nguyện vọng, ý chí của nhân dân, là trách nhiệm của Đảng tuân theo ý dân chứ không phải là tham vọng quyền lực như những sự xuyên tạc của các thế lực thù địch và một số người phản Đảng. Những sự xuyên tạc ác ý, kích động và mị dân với đủ mọi lời lẽ, giọng điệu, sắc thái ấy không thể lừa bịp được ai, nhất là nhân dân ta đã một lòng gắn bó với Đảng. Nhân dân vốn khách quan và công tâm, nên suy nghĩ của dân là sáng suốt; thái độ, tiếng nói của dân có sức nặng tin cậy và thuyết phục. Mọi sự xuyên tạc, phủ nhận về ĐCS Việt Nam, về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đều đi ngược lại lý trí, tình cảm và nguyện vọng của dân, đều bị chính thực tiễn đổi mới đầy sức sống và triển vọng cũng như sự đoàn kết, cố kết không gì phá vỡ nổi giữa Đảng với dân ở nước ta bác bỏ. Đó là sự thật và sức mạnh của đạo lý chính trị Việt Nam về Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Sự thật và sức mạnh ấy còn ở phương diện pháp lý của nó, được thể hiện cô đúc, chặt chẽ, chính xác, quang minh chính đại trong toàn văn Điều 4 của Hiến pháp.

Việc Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân, hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp, khẳng định rõ ràng bản chất của Đảng, đó là bản chất cách mạng và khoa học. Bản chất đó thể hiện ở chỗ, ĐCS Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều đó đã cho thấy: Một là, Hiến pháp là do nhân dân xây dựng, thực hiện và bảo vệ; là ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, có thể khẳng định, nhân dân - người chủ đích thực của chế độ - chẳng những thừa nhận bản chất, vai trò, tôn vinh Đảng để Đảng có địa vị pháp lý của mình, mà còn bảo vệ Đảng. Pháp lý thống nhất với đạo lý, cho nên bảo vệ Đảng về thực chất là bảo vệ dân và vì bảo vệ dân mà phải bảo vệ Đảng - một Đảng được nhân dân thừa nhận là Đảng của mình. Hai là, Hiến pháp đã hiến định rõ cả mục đích lẫn trách nhiệm của Đảng: "ĐCS Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình". Đây là những cái mới về lý luận dân chủ trong điều kiện Đảng cầm quyền, là điều vô cùng hệ trọng đối với cuộc sống của dân, quyền lực của dân cũng như sinh mệnh của Đảng. Đảng là người lãnh đạo nhưng chịu sự giám sát, kiểm tra của nhân dân; chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Đó là tính chế định pháp lý, sự ràng buộc chặt chẽ của luật pháp đối với Đảng. Đây là căn cứ pháp lý xác đáng, câu trả lời sáng tỏ, khẳng định ở nước ta một Đảng cầm quyền vẫn đảm bảo thực thi tốt dân chủ, không có chuyên quyền, độc đoán. Nó phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, mị dân, cho rằng một đảng lãnh đạo là chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ. Song, chân lý luôn tường minh, là tiếng nói của lẽ phải cất lên từ chính người dân: đa đảng, đa nguyên không phải là chìa khóa giải bài toán dân chủ. Thực tế cho thấy, thể chế chính trị đa đảng đối lập ở rất nhiều quốc gia, dân tộc đã từng phải hứng chịu thường xuyên, liên miên những phản dân chủ, rối loạn, khủng hoảng, rốt cuộc chỉ dẫn tới tổn hại lợi ích, quyền sống của dân, làm suy yếu nội lực quốc gia. Các phe phái lợi dụng tâm lý bất mãn của một bộ phận dân chúng trước những khiếm khuyết của thể chế, tiêu cực xã hội để kích động, dẫn tới những xung đột, biểu tình, bạo loạn nhằm tranh giành quyền lực, lợi ích về mình chứ không phải vì sự bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Điều đó càng cho thấy, khi đã thể chế được quyền và nghĩa vụ của Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ thì mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân sẽ được xác lập về mặt pháp lý. Đó là chuẩn mực dân chủ và dân chủ được thực hiện trong hành lang pháp luật. Dân chủ và văn hóa dân chủ rõ ràng không tùy thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng. Điều quan trọng là ở bản chất, động cơ, mục đích của đảng đó. ĐCS Việt Nam là Đảng vì dân, trọng dân, trọng pháp, vì vậy mà Đảng được nhân dân thừa nhận. Ba là, Hiến pháp đã ghi rõ: các tổ chức của Đảng và đảng viên ĐCS Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Với hiến định và chế định này, Đảng và các đảng viên của Đảng không đứng ngoài pháp luật mà phải luôn ý thức và hành động sao cho hợp hiếnhợp pháp. Hơn nữa, Đảng và các đảng viên còn phải tiên phong và gương mẫu trong chấp hành pháp luật, làm gương cho quần chúng noi theo. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh "Đảng là đạo đức, là văn minh" đã hàm chứa cả đạo đức cách mạng và văn minh chính trị mà Đảng phải tự biểu hiện mình như một hiện thân sinh động.

Từ những phân tích trên, có thể nói, Điều 4 cũng như toàn bộ Hiến pháp đã làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Vai trò lãnh đạo đó của ĐCS Việt Nam cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đều cho thấy phẩm chất xứng đángtính chính đáng của Đảng trong lãnh đạo và cầm quyền, được nhân dân thừa nhận, ủng hộ; được Hiến pháp, luật pháp của Nhà nước ta khẳng định và bảo vệ là điều không thể bác bỏ.

Để Hiến pháp thực sự đi vào cuộc sống, khẳng định địa vị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, tạo động lực chính trị - tinh thần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, tăng cường quốc phòng, an ninh; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, tỏ rõ bản chất tốt đẹp của nền dân chủ XHCN ở nước ta, có biết bao việc cần làm, đang hối thúc sự nỗ lực đầy trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.

Trước hết, Đảng chú trọng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, sửa đổi các đạo luật, các quy định pháp luật hiện hành và ban hành các luật mới cho phù hợp với Hiến pháp, vừa đảm bảo cho Hiến pháp được thực hiện, vừa làm cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị nước ta đáp ứng yêu cầu hợp hiến, hợp pháp. Đây là việc hệ trọng, cần được tiến hành khẩn trương nhưng phải cẩn thận, chu đáo, đồng bộ, đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Đảng thực thi vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó có lãnh đạo Quốc hội thể chế hóa các đạo luật, xây dựng hệ thống luật, lãnh đạo hoạt động cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN phải thể hiện nhất quán các nguyên tắc khoa học - dân chủ - pháp quyền và nhân văn.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật sâu rộng cho mọi tổ chức, lực lượng và mọi người dân; nâng cao ý thức, hình thành văn hóa pháp luật trong đời sống xã hội. Cán bộ, đảng viên, công chức Nhà nước phải gương mẫu, tôn trọng, thi hành Hiến pháp, pháp luật để làm gương cho nhân dân noi theo. Đó là đòi hỏi cần thiết và cấp bách để việc thi hành và bảo vệ Hiến pháp không dừng lại ở ý thức, nhận thức mà trở thành hành động thực tế, trực tiếp và phổ biến. Làm tốt công tác này sẽ góp phần tạo dựng kỷ cương, nền nếp trong xã hội, đặc biệt trong các tổ chức đảng, các cơ quan công quyền, các tổ chức đoàn thể của nhân dân. Chỉ có nghiêm minh trong thi hành Hiến pháp, pháp luật mới có thể nói tới giá trị, ý nghĩa và sức sống của dân chủ - pháp quyền, của chế độ pháp trị như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà giờ đây chúng ta phải ra sức vận dụng, thực hành. Muốn vậy, Đảng phải chăm lo lãnh đạo Nhà nước ở một trong những mắt khâu xung yếu là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ sao cho "thạo chính trị, giỏi chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ, tận tụy, mẫn cán, đề cao trách nhiệm trước dân".

Ba là, xây dựng Đảng là khâu then chốt, nên chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch Đảng, làm cho Đảng vững mạnh thực sự, xứng đáng với niềm tin yêu, sự ủy thác và kỳ vọng của dân phải là việc xung yếu nhất trong tình hình hiện nay.  Phải xây dựng Đảng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Đồng thời, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" gắn với thực hiện chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Coi đây là giải pháp cơ bản, thường xuyên nhằm khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Bốn là, ra sức đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng. Theo đó, phải thực hiện nghiêm túc quyết tâm chính trị của Đảng: ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, nghiêm trị những kẻ tham nhũng “hại dân, hại nước”, để khôi phục niềm tin của dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Làm tốt những việc trên đây là trách nhiệm pháp lý, quyết tâm chính trị, nghĩa vụ đạo đức và lương tâm, danh dự của toàn Đảng, của từng tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên trước nhân dân. Có như vậy, Đảng mới khẳng định và giữ vững được bản chất, vai trò lãnh đạo của mình đối với Nhà nước và xã hội. Đó cũng là cách tốt nhất để làm thất bại mọi luận điệu tuyên truyền, kích động của các thế lực thù địch về vấn đề đặc biệt hệ trọng quyết định đến vận mệnh, tương lai CNXH ở nước ta.

GS, TS. HOÀNG CHÍ BẢO

Hội đồng Lý luận Trung ương

Ý kiến bạn đọc (0)

Cảnh giác với thủ đoạn "chuyển hóa" thế hệ trẻ của các thế lực thù địch
​​​​​​​Nhằm chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch, phản động đã không từ một thủ đoạn nào; trong đó, thế hệ trẻ là một trọng điểm của chúng. Đây là thủ đoạn rất nham hiểm nhằm thúc đẩy “diễn biến” để “chuyển hóa” thế hệ rường cột của nước nhà. Do đó, cần đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, bảo vệ thế hệ tương lai của đất nước.