Những chủ trương công tác lớn Chuyên luận chỉ đạo

QPTD -Thứ Năm, 13/12/2012, 04:57 (GMT+7)
Phát huy hào khí “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục thực hiện tốt công tác dân vận trong thời kỳ mới

                      

Vào những ngày cuối tháng 12 năm 1972, đế quốc Mỹ phát động cuộc tập kích chiến lược đường không quy mô lớn mang tên “Lai-nơ-bếch-cơ II” đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh lân cận, nhằm buộc ta phải ký Hiệp định Pa-ri về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” theo hướng có lợi cho chúng. Để thực hiện mục tiêu này, chúng đã huy động 50% máy bay chiến lược B.52, 31% máy bay chiến thuật của lực lượng không quân Mỹ; trong đó, B.52 được xem là “con át chủ bài” quyết định. Quán triệt sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng nhiều tiền. Dù chúng có B.57, B.52 hay “bê” gì đi chăng nữa ta cũng đánh…, mà đã đánh là nhất định thắng”1, quân và dân ta, nòng cốt là Bộ đội Phòng không - Không quân (PK-KQ) đã dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, đập tan cuộc tiến công chiến lược của không quân Mỹ, bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B.52, làm nên Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” rực rỡ. Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” của quân và dân ta đã hạ gục thần tượng “Pháo đài bay B.52”, làm phá sản hoàn toàn mưu đồ thắng trên bàn đàm phán bằng sức mạnh quân sự của đế quốc Mỹ; tạo ra bước ngoặt quan trọng để thực hiện chiến lược “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

40 năm đã trôi qua, nhưng âm hưởng hào hùng của Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” vẫn còn vang vọng. Một trong những điểm nhấn của bản anh hùng ca đó là tinh thần dám đánh, quyết đánh và quyết đánh thắng của quân và dân ta, nhất là quân và dân Hà Nội, trong 12 ngày đêm lịch sử đối đầu với “con bài cuối cùng” của không lực Hoa Kỳ. Quyết tâm dám đánh, quyết đánh thắng của quân và dân ta trong cuộc đọ sức quyết liệt này đã thể hiện bản lĩnh và tầm cao trí tuệ Việt Nam. Với chiến thắng đó, Hà Nội trở thành biểu tượng của niềm tin chiến thắng và là “Thủ đô của phẩm giá con người”.

 Có nhiều yếu tố góp phần tạo nên ý chí quyết đánh và quyết thắng của quân và dân ta trong Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”; trong đó, công tác dân vận (CTDV) của Đảng và của lực lượng vũ trang đóng vai trò rất quan trọng. Bằng những hình thức đa dạng và phong phú, CTDV trong thời khắc lịch sử này đã khơi dậy được lòng tự hào dân tộc, truyền thống đánh giặc giữ nước của ông cha, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào đường lối chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam; tin vào sự tất thắng của chính nghĩa, chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh với quyết tâm tất cả để đánh thắng B.52, bảo vệ vững chắc Thủ đô Hà Nội – trái tim của Tổ quốc. CTDV đã góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt quân - dân. Cả người không có nhiệm vụ chiến đấu, sơ tán khỏi thành phố theo yêu cầu của chính quyền, lẫn những người ở lại làm nhiệm vụ chiến đấu đều với một quyết tâm “Đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” và tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. CTDV đã huy động được sức mạnh của toàn dân cùng các đơn vị Bộ đội PK-KQ làm tốt công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu và thực hành chiến đấu: kiên cường đánh trả, tích cực củng cố trận địa, san lấp hố bom, sửa chữa đường băng, ngụy trang vũ khí, khí tài, cứu chữa thương binh, tiếp đạn, v.v. Đặc biệt, sự “chia lửa” bởi lực lượng phòng không của dân quân các địa phương và tự vệ các nhà máy, xí nghiệp không chỉ góp phần làm rối loạn đội hình máy bay địch, tạo điều kiện để Bộ đội PK-KQ tác chiến có hiệu quả, mà còn trực tiếp bắn rơi máy bay Mỹ, làm nhụt ý chí, tinh thần của phi công địch. Càng trong hoàn cảnh ác liệt của cuộc chiến đấu, tình đoàn kết quân - dân càng được khẳng định và trở thành nguồn sức mạnh to lớn, cổ vũ tinh thần “dám đánh, quyết đánh và quyết đánh thắng B.52” của quân và dân ta để làm nên Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.

Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” để lại cho chúng ta nhiều bài học bổ ích đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trong đó, có bài học về CTDV nhằm phát huy vai trò của nhân dân để tạo sức mạnh tổng hợp vẫn còn nguyên giá trị. Ngày nay, tình hình quốc tế và trong nước có những biến đổi nhanh chóng, khó lường. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, sử dụng các con bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để kích động, chia rẽ Quân đội với nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hòng làm sụp đổ chế độ XHCN ở nước ta. Khi có cơ hội, chúng sẵn sàng tiến hành chiến tranh xâm lược, mà tiến công đường không bằng vũ khí công nghệ cao sẽ là một trong những phương thức chủ yếu. Phát huy hào khí “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” trong tình hình mới, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tinh thần “dám đánh, quyết đánh và quyết đánh thắng B.52” của năm xưa; tập trung xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, sự gắn bó máu thịt với nhân dân vừa là bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam, vừa là động lực để mọi cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Vì thế, trong tình hình mới, các đơn vị quân đội càng phải thực hiện tốt hơn nữa CTDV, nhằm tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân.

Trước hết, toàn quân phải tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm CTDV của Đảng; chủ động phân tích, dự báo đúng tình hình, tham mưu chính xác, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương và các lực lượng có liên quan để tiến hành CTDV. Trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, quy chế về CTDV của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị đã ban hành, lãnh đạo, chỉ huy và cơ quan dân vận các đơn vị cần quán triệt sâu sắc vai trò, vị trí, nhiệm vụ CTDV, thường xuyên phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương nắm chắc tình hình, chủ động tham mưu, đề xuất, xử lý kịp thời các tình huống nảy sinh một cách đúng đắn phù hợp theo đúng chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, góp phần giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Đồng thời, tăng cường quán triệt, giáo dục làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ nhận thức đúng vị trí, vai trò của CTDV trong việc xây dựng “thế trận lòng dân”, mà trọng tâm là khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta, trong đó có hào khí “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình tiến hành CTDV, các đơn vị cần chủ động bám sát cơ sở, địa bàn, nắm chắc đặc điểm, tình hình của từng địa phương, tổ chức tuyên truyền, vận động, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN và bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam; từ đó, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, sẵn sàng đóng góp sức người, sức của để xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Các đơn vị cũng cần thường xuyên tham gia giúp các địa phương trên địa bàn đóng quân đẩy mạnh thực hiện các phong trào hành động cách mạng, xây dựng địa bàn trong sạch vững mạnh, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phối hợp xây dựng kế hoạch chủ động phòng chống thiên tai, thảm họa, cứu hộ, cứu nạn, bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân. Mặt khác, cần tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý nghiêm những quân nhân có hành vi vi phạm kỷ luật trong quan hệ với dân.

Hai là, phải tích cực đổi mới nội dung, hình thức tiến hành CTDV cho phù hợp với yêu cầu mới. Việc đổi mới phải trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh của các địa phương; kết hợp chặt chẽ giữa nội dung, hình thức CTDV đã được khẳng định với xác định các nội dung, hình thức mới phù hợp với đặc điểm, tình hình và sự phát triển của từng địa phương. Cơ quan dân vận các cấp cần làm tốt việc tham mưu, chỉ đạo cho lãnh đạo, chỉ huy đơn vị tiếp tục duy trì, mở rộng hoạt động kết nghĩa, huấn luyện dã ngoại kết hợp làm CTDV; đồng thời, phát huy tốt vai trò của các tổ công tác dân vận ở đơn vị, các tổ, đội công tác liên ngành và lực lượng cán bộ tăng cường cơ sở, nhất là các đồng chí tham gia cấp ủy, chính quyền và Hội đồng nhân dân các cấp ở địa phương. Bên cạnh việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương, CTDV cần bám sát các chỉ thị, nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội đã ban hành; tập trung vào những chính sách có liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân ở cơ sở. Theo đó, các đơn vị cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết 152-NQ/ĐUQSTƯ của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường CTDV của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới”, Chỉ thị 76/CT-BQP của Bộ Quốc phòng về “Tiếp tục đẩy mạnh CTDV của dân quân tự vệ trong tình hình mới”; các văn bản chỉ đạo của Tổng cục Chính trị về CTDV trong thực hiện Nghị quyết 30a về “Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện nghèo”, thực hiện Nghị quyết 80 về “Định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020” và Phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” của Chính phủ, v.v. Trong quá trình tiến hành CTDV, các đơn vị cần chủ động phối hợp với Công an (theo Nghị định 77/2010/NĐ-CP của Chính phủ), với các tổ chức chính trị - xã hội để thực hiện các chương trình, nghị quyết liên tịch đã ký, góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn; giúp địa phương phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng – an ninh, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn...

Ba là, thực hiện tốt CTDV ở vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo và chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong Quân đội. Cơ quan dân vận phải chủ động tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, nhất là trong nhiệm vụ tuyển quân, xây dựng nguồn cán bộ, đảng viên là người dân tộc thiểu số, người có đạo ở địa phương và đơn vị; triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 572-CT/QUTW của Quân ủy Trung ương và Hướng dẫn 1617/HD-CT của Tổng cục Chính trị về “Quân đội thực hiện công tác dân tộc trong tình hình mới” với những nội dung, biện pháp phù hợp chức năng, nhiệm vụ của Quân đội và tình hình, đặc điểm của địa phương. Các đơn vị cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền cơ sở và các lực lượng có liên quan nhằm phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo để vận động nhân dân thực hiện tốt “6 không”2; tham mưu xử lý những vụ việc phức tạp theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, góp phần phòng, chống có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để thực hiện “diễn biến hòa bình”.

Bốn là, tập trung xây dựng cơ quan dân vận vững mạnh; đội ngũ cán bộ làm CTDV có phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thực tiễn chỉ ra rằng, ở đơn vị nào, ngành nào xây dựng cơ quan và đội ngũ cán bộ làm CTDV vững mạnh, thì ở đó, việc tiến hành các nội dung, biện pháp CTDV đạt hiệu quả cao; tình hình địa bàn ổn định, đoàn kết quân - dân được tăng cường. Bởi vậy, các cấp cần thường xuyên quan tâm xây dựng cơ quan dân vận vững mạnh, hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ; cán bộ dân vận thực sự mẫu mực, tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tâm huyết với công việc, vững vàng về nghiệp vụ, sâu sát cơ sở. Với cán bộ dân vận công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ngoài các tiêu chí trên, còn phải biết tiếng dân tộc; hiểu tâm lý đồng bào, phong tục, tập quán địa phương; không ngại khó khăn, gian khổ khi đến vùng sâu, vùng xa, thực hiện “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với dân để nắm tâm tư, nguyện vọng và tham mưu giải quyết đúng, trúng, kịp thời những vướng mắc của dân. Để làm được điều đó, các đơn vị cần làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ làm CTDV; tổ chức các lớp học tiếng dân tộc, tập huấn về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp, tác phong công tác; thực hiện nghiêm túc nền nếp, chế độ báo cáo nghiệp vụ, tổng kết, rút kinh nghiệm, bình xét thi đua, khen thưởng. Toàn quân cần tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; tăng cường sinh hoạt đối thoại dân chủ, thực hiện tốt Ngày chính trị - văn hóa - tinh thần; giữ nghiêm kỷ luật Quân đội, phấn đấu không để xảy ra vụ việc vi phạm kỷ luật quân đội, chấm dứt vi phạm kỷ luật dân vận.

Phát huy hào khí Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, cấp ủy, chính ủy (chính trị viên), người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh CTDV trong tình hình mới; bởi đó là một bảo đảm quan trọng để toàn quân thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ “đội quân công tác”, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN ./.

 

Thượng tướng NGÔ XUÂN LỊCH

Bí thư Trung ương Đảng,

Chủ nhiệm TCCT Quân đội nhân dân Việt Nam

_____________

1- Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 11, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 467.

2- 6 không: Một là, không nghe lời xúi giục của kẻ xấu; Hai là, không truyền đạo trái pháp luật; Ba là, không di cư, dịch cư tự do; Bốn là, không chặt, phá rừng làm nương; Năm là, không vượt biên trái phép; Sáu là, không buôn bán, vận chuyển và tái trồng cây thuốc phiện.

 

Ý kiến bạn đọc (0)

Quân đội tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới
Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, trở thành một trong những trụ cột của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp - nền tảng vững chắc để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước