Nghiên cứu - Tìm hiểu Nghiên cứu - Trao đổi

QPTD -Thứ Hai, 14/05/2018, 10:23 (GMT+7)
Mấy giải pháp phát huy vai trò của cơ quan chuyên trách đối ngoại quốc phòng hiện nay

Đối ngoại quốc phòng là một mặt công tác quan trọng trong hoạt động đối ngoại của Đảng ta, góp phần giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Để nâng cao hiệu quả thực hiện công tác này, việc phát huy vai trò của cơ quan chuyên trách về đối ngoại quốc phòng là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, cần quan tâm giải quyết.

Hệ thống cơ quan chuyên trách đối ngoại quốc phòng trong Quân đội bao gồm: Cục Đối ngoại; các phòng, ban đối ngoại thuộc các tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển; các phòng, ban hợp tác quốc tế của các doanh nghiệp, đoàn kinh tế - quốc phòng, một số học viện nhà trường. Ngoài ra, ở một số đơn vị còn phân công cán bộ chuyên trách, cán bộ kiêm nhiệm công tác này. Đây là lực lượng nòng cốt trong tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Hơn thế nữa, phạm vi nhiệm vụ của đối ngoại quốc phòng rộng, tính nhạy cảm cao, trực tiếp liên quan đến vị thế, uy tín, danh dự của Quân đội, quốc gia cũng như hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế, v.v. Vì vậy, ngoài trình độ tri thức, nhạy bén về chính trị, khả năng dự báo tốt, thành thạo kỹ năng đối ngoại, đòi hỏi quá trình tổ chức thực hiện hoạt động đối ngoại quốc phòng ở mỗi cấp phải hết sức cẩn trọng, chặt chẽ, linh hoạt, mềm dẻo, “dĩ bất biến ứng vạn biến”1.

Bám sát quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, nhất là tư tưởng: độc lập, tự chủ, không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không liên kết với nước này chống lại nước khác,... thời gian qua, cơ quan chuyên trách về đối ngoại quốc phòng đã tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giúp Đảng, Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ này đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đến nay, Việt Nam có quan hệ quốc phòng với trên 80 quốc gia và vùng lãnh thổ (đặt cơ quan tùy viên quốc phòng tại 34 nước và có 45 nước đặt cơ quan tùy viên quốc phòng tại nước ta); nhiều văn bản hợp tác về quân sự, quốc phòng song phương, đa phương đã được ký kết. Các hoạt động đối ngoại, như: giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc; phối hợp tuần tra biên giới trên bộ, trên biển với các nước có biên giới, vùng biển liền kề; hợp tác huấn luyện, đào tạo; khoa học, công nghệ quân sự,... với các đối tác ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, thực chất. Thực hiện đúng cam kết về tổ chức lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc; có những đóng góp quan trọng trong các hội nghị, diễn đàn khu vực, quốc tế về quốc phòng, an ninh, như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), v.v. Có thể khẳng định rằng, đây là một kênh quan trọng, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc; nâng cao vai trò, vị thế của đất nước, Quân đội trên trường quốc tế.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan này còn tồn tại một số hạn chế, như: khả năng nghiên cứu, dự báo, tham mưu có lúc chưa theo kịp diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực; trình độ, năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ của tổ chức, cá nhân có mặt chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về quân sự, quốc phòng; sự phối hợp, trao đổi thông tin và tổ chức các hoạt động liên quan đến đối ngoại quốc phòng giữa các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương và lực lượng liên quan có lúc chưa chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả chưa cao, v.v. Để kịp thời khắc phục những hạn chế nêu trên, nâng cao chất lượng, hiệu quả đối ngoại quốc phòng của các cơ quan chuyên trách lên một bước mới, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó, tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:

Một là, thường xuyên kiện toàn tổ chức biên chế, đảm bảo về số lượng, chất lượng cơ quan chuyên trách đối ngoại quốc phòng các cấp trong Quân đội. Đây là vấn đề quan trọng, trực tiếp tác động đến chất lượng, hiệu quả tham mưu, tổ chức thực hiện nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng ở mỗi cấp. Vì thế, cơ quan chuyên trách về đối ngoại quốc phòng cần thường xuyên được kiện toàn đủ về số lượng, tốt về chất lượng, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ quan trọng này trong tình hình mới. Trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc chủ trương điều chỉnh tổ chức, lực lượng của Bộ, ở từng cấp cần chủ động xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại quốc phòng, theo hướng: “tinh, gọn, nhạy bén, linh hoạt”. Quá trình thực hiện, cần giảm quân số ở các khâu trung gian, ưu tiên lực lượng, phương tiện cho các đơn vị trực tiếp làm công tác đối ngoại ở biên giới, hải đảo và những nhiệm vụ đặc thù; làm tốt việc rà soát đội ngũ, bổ sung, xây dựng các tiêu chí mới về chức năng, nhiệm vụ; gắn kiện toàn tổ chức biên chế với xây dựng đội ngũ cấp ủy, cán bộ chủ trì mỗi cơ quan, đơn vị chuyên trách về đối ngoại quốc phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và công tác chính sách, điều chỉnh tổ chức, biên chế đúng cơ cấu, đủ quân số theo quy định; coi trọng về số lượng, nhưng phải đặt lên hàng đầu về chất lượng, bảo đảm đồng bộ, chuyên sâu, đủ khả năng tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện tốt các hoạt động đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới.

Hai là, tập trung nâng cao phẩm chất, trình độ, năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên trách về đối ngoại quốc phòng. Cũng như các lĩnh vực khác, hiệu quả hoạt động đối ngoại quốc phòng được quyết định chủ yếu bởi đội ngũ cán bộ, nhân viên - những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ. Vì thế, cùng với nâng cao phẩm chất, nhân cách, cần tiến hành đồng bộ, hiệu quả nhiều giải pháp quản lý, giáo dục, rèn luyện, thử thách,... giúp cán bộ, nhân viên cơ quan làm công tác đối ngoại quốc phòng đáp ứng yêu cầu đề ra, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Theo đó, đội ngũ làm công tác đối ngoại quốc phòng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ, năng lực thực tiễn, nhạy bén về chính trị, hiểu biết sâu sắc về quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng, về đối tượng, đối tác; giỏi về ngoại ngữ, có tri thức khoa học phù hợp với sự phát triển của cách mạng công nghệ 4.0; nắm chắc văn hóa, truyền thống, tình hình thực tiễn và dự báo sự phát triển của các nước, khu vực được phân công; thận trọng, khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, giải quyết các tình huống, v.v. Để đáp ứng yêu cầu đó, từng cơ quan, đơn vị chuyên trách về đối ngoại quốc phòng cần tuyệt đối tuân thủ đúng quy trình và bảo đảm chặt chẽ ở tất cả các khâu, các bước trong việc quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại, tuyển chọn, sử dụng cán bộ, nhất là đội ngũ cấp ủy, cán bộ chủ trì, người đứng đầu các tổ chức. Trong đó, phải lấy tiêu chí về phẩm chất chính trị, năng lực thực tiễn và kết quả hoàn thành nhiệm vụ để đánh giá, sử dụng cán bộ cho phù hợp; kiên quyết khắc phục tình trạng giản đơn, hạ thấp tiêu chí trong lựa chọn, phân công công tác cho cán bộ đối ngoại quốc phòng. Thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng cơ bản về đối ngoại, tư tưởng, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước; những yêu cầu bắt buộc và những vấn đề cần tránh trong giao tiếp, quan hệ với từng đối tác để họ luôn tự tin nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị, chức trách được giao. Phát huy vai trò chủ động, tích cực, tự giác tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực toàn diện, nhất là kỹ năng đối ngoại của cán bộ đối ngoại quốc phòng; trong đó, phải hết sức coi trọng việc cập nhật thông tin, tự nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ, năng lực thực tiễn; trau dồi kiến thức về ngoại ngữ, lịch sử, văn hóa, truyền thống, quân sự, quốc phòng,... của đối tác có quan hệ đối ngoại quốc phòng được phân công.

Ba là, phát huy vai trò tham mưu, chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cơ quan chuyên trách về đối ngoại quốc phòng. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, cơ quan đối ngoại quốc phòng các cấp cần chủ động, tích cực nghiên cứu, dự báo, nắm chắc tình hình thế giới, khu vực và đối tác có liên quan để tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phù hợp điều kiện đất nước và xu thế thời đại; phát huy vai trò của hệ thống tổ chức đảng, chỉ huy, người chủ trì các cấp trong việc quán triệt, cụ thể hóa và triển khai thực hiện đường lối đối ngoại quốc phòng ở cấp mình. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan đối ngoại của Đảng, Nhà nước, địa phương, như: Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Công thương, cơ quan báo chí, địa phương,... để trao đổi, thống nhất nội dung, biện pháp và hiệp đồng chặt chẽ trong tổ chức các hoạt động về trao đổi đoàn; giao lưu quốc phòng biên giới; tuần tra chung trên bộ, trên biển; diễn tập phòng, chống khủng bố và các loại tội phạm xuyên quốc gia; hợp tác về khoa học quân sự, huấn luyện, đào tạo, công nghiệp quốc phòng; tổ chức lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, v.v. Đồng thời, làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; thẩm định tài liệu, nhân sự các đoàn ra, đoàn vào; kịp thời ngăn ngừa, phát hiện và hóa giải việc lợi dụng hợp tác, đối ngoại để thực hiện những âm mưu, hành động làm phương hại đến đất nước.

Bốn là, bảo đảm tốt điều kiện làm việc và quan tâm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, nhân viên, cơ quan chuyên trách về đối ngoại quốc phòng. Cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chức năng theo phân cấp cần lãnh đạo, chỉ đạo, đề xuất tốt việc đầu tư củng cố, bổ sung, xây dựng trụ sở làm việc của cơ quan cấp mình (cả trong nước và ở nước ngoài) phù hợp với tính chất đặc thù nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng; bảo đảm đầy đủ cơ sở vật chất, hệ thống máy móc, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật chuyên dùng theo hướng hiện đại, phù hợp yêu cầu nhiệm vụ. Trong đó, phải tuyệt đối tuân thủ về quy trình sử dụng, các quy định về bảo mật, nhất là những thiết bị có kết nối mạng in-tơ-nét, như: máy tính, điện thoại, v.v. Thường xuyên bảo đảm đúng, đủ, kịp thời chế độ, tiêu chuẩn, quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần, chế độ, chính sách về quân hàm, nâng lương, đi học, nghỉ phép,... của cán bộ, nhân viên làm công tác đối ngoại quốc phòng; thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội, v.v.

Phát huy vai trò của cơ quan chuyên trách về đối ngoại quốc phòng trong Quân đội là vấn đề quan trọng, cấp thiết và bao hàm nhiều nội dung. Vì thế, những giải pháp nêu trên chỉ là đề xuất bước đầu, xin được trao đổi, nhằm hiện thực hóa chủ trương: “Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”2, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tá LÊ VĂN DUY, Học viện Quốc phòng

______________

1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. XXI.

2 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149. 

Ý kiến bạn đọc (0)

Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội
Nhân kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó giáo sư, Tiến sỹ Phạm Ngọc Anh, Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh có bài viết "Giá trị nhân văn Hồ Chí Minh - nền tảng của sự phát triển xã hội" khẳng định, với bản chất và đặc trưng phổ quát, giá trị cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nền tảng phát triển xã hội, kiến tạo hệ thống quan hệ xã hội mang đậm bản chất người và giá trị làm người chân chính.