Sự kiện lịch sử Những ngày kỷ niệm lớn

QPTD -Thứ Năm, 04/12/2014, 10:10 (GMT+7)
Một số kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc

Tạp chí Quốc phòng toàn dân trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc tham luận của Đại tướng Lê Văn Dũng, Nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam tại Hội thảo khoa học: “Tổng cục Chính trị - 70 năm với sự nghiệp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị”.

Đại tướng Lê Văn Dũng

Tiến hành công tác đảng, công tác chính trị là một trong những nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt mọi thời kỳ, giai đoạn, mọi nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam. Công tác đảng, công tác chính trị tác chiến chiến lược nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện nhiệm vụ tác chiến chiến lược, phát huy vai trò của nhân tố con người, đặc biệt là nhân tố chính trị - tinh thần, xây dựng các tổ chức, lực lượng tham gia tác chiến chiến lược thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các tổ chức, lực lượng tham gia tác chiến chiến lược, bảo đảm cho tác chiến chiến lược giành thắng lợi. Tiến hành tốt công tác đảng, công tác chính trị tác chiến chiến lược là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho các tổ chức, các lực lượng tham gia tác chiến chiến lược phát huy được sức mạnh chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao.

Thực tiễn chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc đã khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác đảng, công tác chính trị tác chiến chiến lược. Theo đó, có thể rút ra những kinh nghiệm quý báu từ thành công và hạn chế sau:

Thứ nhất, đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng suốt và nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất, linh hoạt, sáng tạo của Đảng trong suốt quá trình tác chiến là nhân tố cơ bản giữ vai trò quyết định thắng lợi của tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc

Từ sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều biến đổi to lớn. Trên thế giới, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại và phát triển, đặc biệt là mâu thuẫn giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp diễn ra quyết liệt. Sau thất bại ở Việt Nam, đế quốc Mỹ đã rút phần lớn lực lượng quân sự ra khỏi châu Á, nhưng vẫn ra sức chạy đua vũ trang, tăng cường các khối liên minh quân sự, điều chỉnh chiến lược toàn cầu từ "răn đe thực tế" sang "ngăn chặn", "vượt trên ngăn chặn", kết hợp giữa biện pháp quân sự với các biện pháp chính trị, kinh tế, văn hóa, tâm lý, ngoại giao... tập trung chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc nhằm thực hiện vai trò lãnh đạo thế giới. Các nước trong khu vực Đông Nam Á có nhiều xu hướng chính trị khác nhau, muốn liên kết với nhau để phát triển kinh tế - xã hội của khối ASEAN, đồng thời bị các nước lớn tìm cách chia rẽ, thao túng.

Lực lượng cách mạng Lào sau khi giành được chính quyền trên cả nước đã thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (02-12-1975). Tuy nhiên bọn phản động lưu vong Lào dưới sự chỉ đạo, tiếp sức của đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách chống phá chính quyền cách mạng, gây dựng lực lượng vũ trang phản động trên đất Thái Lan và trong nội địa Lào, tiến hành các hoạt động phá hoại kinh tế, giao thông, tổ chức tập kích các cơ quan, phục kích ám sát cán bộ Đảng, Nhà nước ở Thủ đô Viêng Chăn, Xa-va-na-khet... gây hoang mang trong nhân dân. Ở Cam-pu-chia, sau khi tiến vào giải phóng Phnôm Pênh, tập đoàn phản động Pôn Pốt theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan cầm quyền đã thực hiện những chính sách đối nội và đối ngoại phản động. Về đối nội, chúng chủ trương thực hiện xây dựng "xã hội trong sạch": không trí thức, không tôn giáo, không tiền tệ, không kinh doanh, không trường học... Những người chống đối chủ trương này đều bị chúng giam cầm, tra tấn, thủ tiêu, tạo nên cuộc "tự diệt chủng" chưa từng có trong lịch sử. Về đối ngoại, chúng thực hiện chính sách chống Việt Nam, khủng bố và đuổi Việt kiều ở Cam-pu-chia về nước, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tiến hành nhiều vụ xâm nhập lãnh thổ để cướp bóc, giết hại nhiều thường dân Việt Nam ở khu vực biên giới.

Ngày 30 tháng 4 năm 1977, tập đoàn phản động Pôn Pốt đã sử dụng nhiều sư đoàn tiến công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, gây ra cuộc chiến tranh lấn chiếm biên giới, chống Việt Nam. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội nước ngoài đồng loạt tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam, phá hoại nhiều thị xã, thị trấn, giết hại nhiều thường dân Việt Nam, gây ra "cuộc chiến tranh có giới hạn nhằm dạy cho Việt Nam một bài học". Sau một tháng tiến công quân sự, quân đội nước ngoài tuyên bố rút quân về nước, song vẫn tổ chức lực lượng quân sự có pháo binh yểm trợ tìm cách lấn chiếm một số khu vực biên giới như Vị Xuyên (Hà Giang), cụm cao điểm bình độ 400m Bắc Cao Lộc (Lạng Sơn) đến gần cuối những năm tám mươi của thế kỷ XX...

Sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, Tổ quốc Việt Nam thống nhất, cả nước chuyển sang giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tình hình trong nước lúc đó có những thuận lợi mới, đồng thời còn rất nhiều khó khăn. Tư duy lãnh đạo, quản lý trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội còn mang nặng dấu ấn của thời kỳ tập trung quan liêu, bao cấp. Hậu quả hơn hai thập kỷ chiến tranh để lại rất nặng nề ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam. Hai cuộc chiến tranh xâm lấn biên giới ở phía Tây Nam và phía Bắc, sự chống phá của bọn phản động trong nước, đặc biệt hoạt động chống phá chính quyền của lực lượng phản động FULRO... gây cho ta nhiều thiệt hại về nhân lực, vật lực, tài lực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên một số vùng chiến lược, nhất là ở Tây Nguyên và một số địa bàn phía Nam. Lực lượng vũ trang nói chung và quân đội nói riêng vừa phải chiến đấu bảo vệ biên giới, thực hiện nghĩa vụ quốc tế giúp lực lượng cách mạng nước Bạn đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ ở Campuchia, truy quét phỉ ở Lào và FULRO ở Tây Nguyên, vừa phải tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng kinh tế.

Trong bối cảnh lịch sử đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976) và lần thứ V (3-1982) của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ II (11-1976), lần thứ III (1-1982) và lần thứ IV (10-1986) đã xác định rõ chủ trương chiến lược của Đảng "Trong giai đoạn mới, các lực lượng vũ trang có hai nhiệm vụ: luôn luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tích cực làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế".

Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị đã lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức, lực lượng tham gia tác chiến chiến lược bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc tập trung quán triệt sâu sắc đường lối chính trị và quân sự của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới; tạo chuyển biến trong nhận thức của cán bộ, chiến sĩ về tình hình, nhiệm vụ mới; làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ nhận diện rõ kẻ thù mới của cách mạng Việt Nam, nêu cao chủ nghĩa yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 7 năm 1978, Hội nghị Trung ương 4 (khóa IV) ra Nghị quyết trong đó xác định rõ: "Tập đoàn Pôn Pốt là kẻ thù của nhân dân ta…", và chỉ đạo "… phải dùng một lực lượng quân đội mạnh, có đủ quân binh chủng hợp thành tiến hành một cuộc tổng phản công bất ngờ, thần tốc, mãnh liệt giành thắng lợi ở hướng Tây Nam. Để đảm bảo thắng lợi trọn vẹn về quân sự và chính trị phải dùng hai lực lượng ta và Bạn, cả hai lực lượng đều có vai trò quyết định, nhưng lực lượng của Bạn là người quyết định cuối cùng. Phải giúp Bạn xây dựng ngọn cờ, xây dựng lực lượng để cùng với lực lượng ta lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt…".

Cuối tháng 10 năm 1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua Quyết tâm và Kế hoạch tác chiến tổng phản công kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam, xác định chủ trương, biện pháp giúp nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng. Tổng cục Chính trị lập bộ phận Tiền phương mặt trận Tây Nam, tổ chức biên soạn tài liệu giáo dục tình hình, nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, "9 điều quy định về kỷ luật chiến trường"… quán triệt cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 2, 3, 4, các đơn vị thuộc Quân khu 5, 7, 9 và một số đơn vị quân, binh chủng tham gia phản công ở biên giới Tây Nam và phối hợp, hỗ trợ lực lượng cách mạng nước Bạn tiến công chiến lược trên đất Campuchia. Trong suốt quá trình tác chiến chiến lược cũng như trong tác chiến của từng chiến dịch, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Quân ủy Trung ương theo dõi chặt chẽ, thường xuyên chỉ đạo, động viên kịp thời các đơn vị chiến đấu trên các chiến trường, mặt trận trong các chiến dịch.

Bám sát thực tế chiến đấu trên các chiến trường, mặt trận, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp trong quân đội đã thường xuyên tập trung lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, xây dựng các tổ chức, lực lượng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tăng cường giáo dục, tuyên truyền đường lối quốc phòng, quân sự, đối ngoại của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ quốc tế của quân đội; bồi dưỡng tinh thần yêu nước, xây dựng ý chí chiến đấu, lòng căm thù quân xâm lược cho các lực lượng, thành phần tham gia tác chiến trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia và Lào, bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

Thứ hai, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị luôn nắm vững nguyên tắc cơ bản lấy xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất l­ượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu toàn diện

Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu toàn diện là nguyên tắc cơ bản hàng đầu trong toàn bộ quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Hoạt động công tác đảng, công tác chính trị tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1978-1988 đã luôn tập trung xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị các cấp đã làm cho các lực lượng tác chiến chiến lược trên các chiến trường, mặt trận luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng; trung thành với đường lối chính trị của Đảng; giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, chủ nghĩa quốc tế trong sáng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội và cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam; đồng thời, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để giúp đỡ lực lượng cách mạng và nhân dân nước Bạn láng giềng.

Hoạt động công tác đảng, công tác chính trị tác chiến chiến lược trên các chiến trường, mặt trận biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc của Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia và Lào chú trọng tiến hành công tác tư tưởng, làm cho mọi lực lượng tham gia tác chiến luôn kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, có ý chí chiến đấu cao, tinh thần dũng cảm, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; quan tâm xây dựng hệ thống tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng, đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến.

Thứ ba, quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về sự thống nhất giữa nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế

Quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về sự thống nhất giữa nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế là một bài học kinh nghiệm quý báu của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Hoạt động công tác đảng, công tác chính trị tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đã chú trọng quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh "Giúp bạn là tự giúp mình", đường lối chính trị, quan điểm đối ngoại đúng đắn của Đảng ta "Đông Dương là một chiến trường", "Thực hiện tốt nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế"; giáo dục các lực lượng tác chiến phát huy truyền thống cao đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thể hiện chủ nghĩa yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế cao cả, đặc biệt đối với quân đội và nhân dân các nước láng giềng, ủng hộ phong trào cách mạng của nhân dân các nước dân chủ và tiến bộ.

Đối với cách mạng Lào, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị đã quan tâm xây dựng, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của quân đội và nhân dân hai nước.

Đối với cách mạng Cam-pu-chia, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc tế giúp lực lượng cách mạng Cam-pu-chia xóa bỏ chế độ Pôn Pốt - Iêng Xa-ry, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, được nhân dân Cam-pu-chia tri ân sâu sắc và gọi Quân đội nhân dân Việt Nam là "Bộ đội nhà Phật".

Cùng với những thành công trên đây, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1978-1988 cũng bộc lộ những hạn chế cần được rút kinh nghiệm sâu sắc:

Thứ nhất, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị chưa theo kịp những biến đổi của tình hình mới

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác chính trị, tư tưởng trong Đảng nói chung và công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội nói riêng chưa theo kịp những biến đổi của tình hình mới. Các cấp chiến thuật, chiến dịch và chiến lược đánh giá chưa đúng mức âm mưu của chủ nghĩa đế quốc bắt tay với các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam, dẫn đến bất ngờ về chiến lược trước cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

Sau nhiều năm chiến tranh gian khổ, ác liệt, bước vào thời kỳ hòa bình, cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị chưa tập trung quán triệt sâu sắc nhiệm vụ chủ yếu của quân đội là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; cán bộ, chiến sĩ ở nhiều đơn vị có biểu hiện chủ quan, tự mãn, mất cảnh giác.

Công tác giáo dục, quản lý bộ đội ở nhiều đơn vị không nghiêm, kỷ luật lỏng lẻo kéo dài; một số cán bộ, đảng viên sa sút ý chí chiến đấu và phẩm chất cách mạng. Số quân nhân vi phạm kỷ luật bị xử lý từ năm 1976 đến năm 1985 liên tục tăng cao (1976: 3,27%; 1977: 4,65%; 1981: 6%; 1982: 6,24%; 1983: 7,88%; 1984: 8,45%; 1985: 8,25%).

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng trong quân đội còn hạn chế. Tình trạng sa sút về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục. Chất lượng chính trị của quân đội chưa tương xứng với yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ tác chiến.

Công tác chính sách quân đội và hậu phương quân đội sau chiến tranh chưa phù hợp, chưa gắn bó chặt chẽ với công tác tư tưởng và tổ chức, gây tác động tiêu cực đến tư tưởng, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ, gia đình quân nhân, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Chất lượng đội ngũ cán bộ giảm sút so với thời điểm kết thúc chiến tranh chống Mỹ, nhất là cán bộ cấp chiến thuật đã trải qua chiến đấu cho xuất ngũ, ra quân nhiều; đội ngũ cán bộ chính trị ở cơ sở thiếu và yếu; vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, nhất là của đội ngũ cán bộ ở cơ sở suy giảm nhưng chậm được chấn chỉnh, khắc phục.

Thứ hai, chậm hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội

Hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng là cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.

Trong chiến tranh giải phóng dân tộc, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách; thực hiện chế độ 2 thủ trưởng (thủ trưởng quân sự và thủ trưởng chính trị), trong đó thủ trưởng quân sự là người chỉ huy, thủ trưởng chính trị là chính ủy, chính trị viên. Cơ chế này đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vẻ vang của quân đội ta.

Ngày 29 tháng 5 năm 1979, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết số 172/NQ-QUTW và sau đó Bộ Quốc phòng ban hành Quy định số 300/QĐ-QP Về thực hiện chế độ một người chỉ huy trong toàn quân (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 1980) trong đó quy định: thủ trưởng là người chỉ huy cao nhất trong đơn vị, chịu trách nhiệm trước cấp trên, trước tập thể cấp mình và toàn thể đơn vị về kết quả thực hiện các nhiệm vụ công tác quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật; giúp việc cho người chỉ huy về các mặt có các phó chỉ huy về quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật.

Ngày 15 tháng 12 năm 1982, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07/NQ-TW Về việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, sự nghiệp quốc phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội, trong đó quy định: thực hiện chế độ một người chỉ huy ở tất cả các cấp trong quân đội; bỏ hệ thống cấp ủy đảng từ Quân ủy Trung ương đến cấp trên cơ sở; thành lập Hội đồng quân sự và Hội đồng chính trị là những cơ quan giúp việc cho người chỉ huy.

Ngày 04 tháng 7 năm 1985, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 27/NQ-TW Về việc tiếp tục kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng: khôi phục lại hệ thống tổ chức đảng trong toàn quân từ Đảng ủy Quân sự Trung ương đến cơ sở.

Việc bãi bỏ chế độ chính ủy, chính trị viên, chức danh chính ủy, chính trị viên để thực hiện chế độ một người chỉ huy, chức danh phó chỉ huy về chính trị trong quân đội trên đây đã làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, những sai lầm trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội đã chậm được khắc phục.

Nguyên nhân của những hạn chế trên đây bao gồm:

Một là, sau thắng lợi 30 tháng 4 năm 1975, trong Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội có tư tưởng chủ quan, tự mãn, mất cảnh giác với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, có phần buông lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chưa quan tâm đúng mức đến công cuộc củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân.

Hai là, công tác chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong quân đội còn tuyên truyền một chiều về chiến thắng và những thành tựu, thuận lợi; chưa lường hết những hậu quả sau nhiều năm chiến tranh và những khó khăn, gian khổ, phức tạp trong giai đoạn cách mạng mới.

Ba là, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc bao gồm những loại hình tác chiến mới, trong khi kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị chủ yếu được tích lũy trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc chưa được tổng kết kịp thời, vì vậy hoạt động công tác đảng, công tác chính trị tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc còn nhiều lúng túng, bị động ở tất cả các cấp chiến thuật, chiến dịch và chiến lược, nhất là trong thời kỳ đầu chiến tranh.

Bốn là, một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa coi trọng công tác chính trị, tư tưởng trong tình hình mới; buông lỏng công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý cán bộ; việc bồi dưỡng phẩm chất, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành công tác đảng, công tác chính trị cho đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ chính trị nói riêng chưa toàn diện và đồng bộ; một số cán bộ, đảng viên chạy theo lợi ích vật chất, không chịu tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức; chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội chậm đổi mới; cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội chậm hoàn thiện.

Nghiên cứu những kinh nghiệm thành công và hạn chế của công tác đảng, công tác chính trị tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1978-1988, từ đó nâng cao nhận thức, củng cố quan điểm lập trường, kiên định nguyên tắc, suy nghĩ vận dụng sáng tạo vào quá trình tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai là vấn đề có tính cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Để phát huy kết quả, ý nghĩa những kinh nghiệm trên đây cần tích cực tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội ngay từ thời bình một cách toàn diện và đồng bộ, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

 

Đại tướng LÊ VĂN DŨNG

Ý kiến bạn đọc (0)

Phát huy vai trò của cơ quan lý luận hàng đầu Quân đội trong phát triển lý luận quân sự cách mạng thời kỳ mới
Là ngọn cờ lý luận quân sự, chính trị của Đảng trong Quân đội, suốt 75 năm qua, Tạp chí Quốc phòng toàn dân luôn khẳng định rõ vai trò, vị thế của mình, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Phát huy vai trò, vị thế đó và trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Tạp chí tiếp tục nỗ lực, phấn đấu nâng cao chất lượng nghiên cứu, tuyên truyền, góp phần phát triển nền lý luận quân sự cách mạng của Đảng.