QPTD -Thứ Sáu, 23/12/2016, 20:34 (GMT+7)
Vận dụng kinh nghiệm thắng lợi những ngày đầu toàn quốc kháng chiến vào xây dựng khu vực phòng thủ

Thắng lợi những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã khẳng định khát vọng hòa bình, ý chí độc lập, tự do của dân tộc ta; giữ vững, củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị những yếu tố cơ bản, điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược giành thắng lợi. Đồng thời, để lại nhiều bài học quý cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, trong đó có nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố.

Cuộc chiến đấu những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (từ đêm 19-12-1946 đến giữa tháng 3-1947) chủ yếu diễn ra tại các đô thị trên phạm vi cả nước. Đây là đợt hoạt động quân sự của quân và dân ta với hàng trăm trận đánh lớn nhỏ, kết hợp nhiều lực lượng, phương tiện, vũ khí, loại hình chiến thuật, cách đánh,… đã tạo thế chủ động tiến công về chiến lược cùng nghệ thuật phát huy sức mạnh tổng hợp, chỉ đạo chiến tranh và nghệ thuật mở đầu cuộc kháng chiến,… của Đảng và là điều kiện để cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài chống thực dân Pháp giành thắng lợi vẻ vang. Để vận dụng những bài học kinh nghiệm về thắng lợi những ngày đầu toàn quốc kháng chiến vào xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh trong tình hình mới, các cấp cần thực hiện hiệu quả mấy vấn đề sau:

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh. Đây là vấn đề cơ bản, quyết định chất lượng, hiệu quả xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Bài học lịch sử cho ta thấy, để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với kháng chiến ở Nam Bộ, chuẩn bị thực lực cho toàn quốc kháng chiến, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, củng cố, phát triển hệ thống tổ chức đảng các cấp, nhất là các tổ chức cơ sở đảng. Theo đó, các tổ chức đảng đã cử đảng viên tham gia chính quyền, đoàn thể các cấp. Tháng 01-1946, Trung ương Quân uỷ được thành lập (đồng chí Võ Nguyên Giáp được phân công giữ chức Bí thư), có nhiệm vụ giúp Ban Chấp hành Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo Quân đội. Ngày 19-10-1946, Đảng ta tổ chức Hội nghị quân sự toàn quốc, ra nghị quyết về thống nhất cơ quan chỉ huy của lực lượng vũ trang, định rõ trách nhiệm của Trung ương Quân ủy, Bộ Quốc phòng; đồng thời, khẳng định rõ lực lượng vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Cùng với đó, hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội được kiện toàn từ Trung ương Quân ủy đến chi bộ đại đội. Những hoạt động đó không chỉ tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, mà còn tạo sự chủ động cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tổ chức phát động và đưa cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, lâu dài” đi tới thắng lợi hoàn toàn.

Ngày nay, vận dụng kinh nghiệm đó vào xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố ngày càng vững chắc, đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần quán triệt và thực hiện tốt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước trong thực hiện nội dung quan trọng này.Trong đó và trước hết là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X); Nghị định 152/2007/NĐ-CP của Chính phủ về khu vực phòng thủ; coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) của Đảng.Trên cơ sở đó, vận dụng vào địa phương mình cho phù hợp, đảm bảo việc xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của tỉnh ủy (thành ủy), sự quản lý, điều hành thống nhất của chính quyền; phát huy vai trò của cơ quan quân sự địa phương và các sở, ban, ngành. Hằng năm, cùng với đưa nội dung xây dựng khu vực phòng thủ vào nghị quyết lãnh đạo, các cấp ủy cần xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện khoa học, phân công cấp ủy viên phụ trách; phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng và nhân dân, trước hết là lực lượng vũ trang địa phương trong xây dựng khu vực phòng thủ. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp; thấy rõ xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là chủ trương chiến lược của Đảng, là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trực tiếp là của cấp ủy, chính quyền, nhân dân địa phương, trong đó, lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt. 

Hai là, nâng cao năng lực làm tham mưu, quản lý, chỉ đạo của Bộ Quốc phòng trong nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Để đảm bảo giành thắng lợi trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, thực hiện chỉ đạo của Tổng chỉ huy, các địa phương, đơn vị trong cả nước tích cực xây dựng căn cứ địa, xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang, nhất là chất lượng về chính trị. Đồng thời, chỉnh đốn cơ quan chỉ huy, xây dựng các ngành quân giới, quân nhu, quân y, v.v.  Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa 1, quyết định thống nhất Bộ Quốc phòng với Quân  sự ủy viên hội thành Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy. Sự thống nhất cơ quan chỉ huy quân sự tối cao và công tác chỉ huy đánh dấu một mốc quan trọng và là điều kiện thuận lợi để các cơ quan chức năng các cấp thực hiện tốt nhiệm vụ chuẩn bị cho toàn quân, toàn dân bước vào cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nước. Trong đo, công tác xây dựng kế hoạch, phương án tác chiến, đánh địch trong thành phố được chuẩn bị theo đúng chỉ đạo của Bộ Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, góp phần giành thắng lợi trong những ngày toàn quốc kháng chiến.

Hiện nay, Bộ Quốc phòng được Nhà nước giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý, chủ trì phối hợp với các bộ, ban, ngành tham mưu giúp Đảng, Nhà nước những chủ trương, biện pháp về xây dựng, hoạt động khu vực phòng thủ. Trong khi đó, xây dựng khu vực phòng thủ là việc sử dụng tổng hợp mọi lực lượng, vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp, nhằm đảm bảo cho khu vực phòng thủ vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện hiệu quả mục đích nêu trên, Bộ Quốc phòng phải tham mưu, giúp Đảng, Nhà nước kiện toàn cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ ở các bộ, ban, ngành Trung ương và địa phương. Đồng thời, thường xuyên rà soát, bổ sung chương trình, kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ, nhất là các kế hoạch đầu tư kinh phí để thực hiện Đề án xây dựng thế trận quân sự; nâng cấp, quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng, các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần - kỹ thuật, phương án tác chiến phòng thủ. Quá trình thực hiện, cần tuân thủ nghiêm pháp luật; chú trọng kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh bằng các kế hoạch, chính sách cụ thể, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của địa phương. Các bộ, ngành ở Trung ương, địa phương chủ động rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, quân sự trong phạm vi lĩnh vực quản lý; hướng dẫn các cơ quan, đơn vị cơ sở trực thuộc thực hiện đạt hiệu quả. Cùng với kiện toàn về bộ máy, các cấp, ngành, lực lượng cần không ngừng nâng cao năng lực, phương pháp công tác và hiệu quả sự phối hợp; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi của từng cơ quan, đơn vị; thường xuyên điều chỉnh, bổ sung nội dung xây dựng khu vực phòng thủ. Chăm lo nâng cao chất lượng công tác tham mưu của cơ quan quân sự và công an; gắn nhiệm vụ xây dựng với tổ chức hoạt động của khu vực phòng thủ, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", thúc đẩy “tự diễn biến’, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Chúng ta đều biết, tại Hội nghị quân sự toàn quốc (19-10-1946), Đảng ta đã tiến hành tổ chức, phân định lại các chiến khu - đơn vị hành chính quân sự. Cả nước được chia thành 12 chiến khu trực thuộc Trung ương, tạo thuận lợi cho quá trình chỉ đạo kháng chiến; đồng thời, phát huy tối đa khả năng huy động sức mạnh và độc lập tác chiến của từng địa phương. Trong 60 ngày đêm giam chân địch ở Thủ đô Hà Nội, hai thị xã: Hà Đông và Sơn Tây đã trở thành hậu phương trực tiếp cho Mặt trận Hà Nội; các huyện: Vụ Bản, Mỹ Lộc, Nam Trực (Nam Định),.. là địa bàn cung cấp hậu cần, hỗ trợ lực lượng cho cuộc chiến đấu 86 ngày đêm giam chân địch ở “Thành Nam”, v.v. Trong chiến đấu, ngoài bộ đội chủ lực còn có sự tham gia của lực lượng tự vệ nội thành, dân quân, du kích ngoại thành; sự tham gia phục vụ chiến đấu của công nhân, nông dân, viên chức, người làm ngành nghề tự do, học sinh, sinh viên và người theo đạo, v.v. Để tạo được sự đồng thuận đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, động viên, khơi dậy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân. Trên thực tế, thế thế trận chiến tranh nhân dân bước đầu được xác lập.

Ngày nay quan điểm, nội dung, nhiệm vụ xây dựng thế trận khu vực phòng thủ đã có nhiều sự phát triển mới so những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Tuy nhiên, những kinh nghiệm về tổ chức hình thành thế trận; nghệ thuật bố trí, sử dụng lực lượng; phương pháp tác chiến, phát triển chiến tranh; xây dựng các công trình, bảo đảm các mặt cho cuộc kháng chiến,… vẫn còn nguyên giá trị. Thực tế cho thấy, thế trận khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là thế trận toàn diện, trong đó trọng tâm là thế trậnquân sự của lực lượng vũ trang thiết lập. Đó là thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân được hình thành từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh, thành phố và các mục tiêu trọng yếu do bộ đội chủ lực xây dựng, sẵn sàng được chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi có chiến tranh xảy ra. Vì vậy, xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh, phải thực sự gắn liền với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, mà trước hết là “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở, từng địa phương và trên phạm vi cả nước. Khu vực phòng thủ phải bảo đảm vững toàn diện, mạnh ở trọng điểm, đáp ứng phương châm “xã giữ xã”, “huyện giữ huyện”, “tỉnh giữ tỉnh”, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Thế trận phải liên hoàn, vững chắc; tổ chức, bố trí lực lượng và hệ thống thiết bị quân sự, công trình quốc phòng phải hợp lý, bảo đảm tốt cho lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ trong thời bình và thời chiến. Quá trình thực hiện, đòi hỏi có sự tham gia tích cực, hiệu quả của các cấp, các ngành, các lực lượng và toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước.

 Bốn là, thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là nội dung cơ bản trong xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc và cũng là một bài học kinh nghiệm quý của thắng lợi những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Ngay từ tháng 8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã chủ trương “vũ trang toàn dân”, “Mở rộng Quân giải phóng Việt Nam”. Tháng 9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị phải nhanh chóng chấn chỉnh và mở rộng Giải phóng quân. Đến cuối năm 1946, dân quân tự vệ, du kích đã phát triển đến gần một triệu người. Cùng với đó, chất lượng lực lượng vũ trang được coi trọng và không ngừng nâng cao. Do đó, khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, chúng ta đã có lực lượng căn bản, đủ sức đánh thắng địch ngay từ những ngày đầu.

Ngày nay, xây dựng lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động viên và dân quân tư vệ vững mạnh toàn diện là vấn đề cơ bản, trọng yếu và cấp thiết trong xây dựng khu vực phòng thủ. Theo đó, cấp ủy, chính quyền địa phương cần thực hiện tốt Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên, quan tâm xây dựng lực lượng này luôn hùng hậu, đảm bảo về chất lượng, nhất là chất lượng về chính trị và chuyên nghiệp quân sự. Trong đó, tập trung thực hiện tốt công tác quản lý cả con người và phương tiện, trang bị kỹ thuật; nâng cao chất lượng huấn luyện, kiểm tra sẵn sàng động viên hàng năm; có kế hoạch động viên công nghiệp phù hợp, bảo đảm tận dụng được thành tựu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, cần thực hiện có hiệu quả phương châm “vững mạnh, rộng khắp”, có số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp ngày càng cao, bảo đảm đủ tin cậy về chính trị; tổ chức biên chế tinh, gọn, chặt chẽ; trang bị, vũ khí phù hợp; được giáo dục chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự toàn diện, thiết thực, từng bước nâng cao khả năng chiến đấu, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của cấp ủy, chính quyền và nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở địa phương, cơ sở. Quán triệt nghiêm túc Luật Dân quân tự vệ, các địa phương cần chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ dân quân tự vệ; gắn công tác xây dựng cán bộ quân sự xã (phường, thị trấn) với công tác xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Cùng với đó, cần coi trọng tham mưu với cấp ủy, chính quyền về xây dựng hệ thống các công trình phòng thủ; đổi mới công tác huấn luyện, nâng cao trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu; trình độ tác chiến độc lập với tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng. Căn cứ các kế hoạch, phương án tác chiến đã được phê duyệt, cơ quan quân sự các cấp cần thường xuyên luyện tập, diễn tập các phương án tác chiến phòng thủ, đảm bảo khả năng đấu tranh quốc phòng, phòng thủ dân sự.

Năm là, đẩy mạnh phát triển kinh tế tạo nền tảng vững chắc cho xây dựng khu vực phòng thủ và bảo đảm về quốc phòng, an ninh. Xây dựng khu vực phòng thủ là  sử dụng tổng hợp mọi lực lượng, vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp chuẩn bị vào quá trình xây dựng các yếu tố về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; các phương thức, hình thức, loại hình tác chiến, chiến đấu… nhằm bảo vệ khu vực tỉnh, thành phố đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Chính phủ đã có nhiều biện pháp nhằm ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Phong trào diệt “giặc đói”, “giặc dốt”, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân, xây dựng đời sống mới,... được phát động trong cả nước. Để khắc phục khó khăn về tài chính, Chính phủ  phát động “Tuần lễ vàng”, kêu gọi nhân dân ủng hộ “Quỹ kháng chiến”, “Quỹ Nam Bộ”, “Quỹ Giải phóng quân”,... và được nhân dân hưởng ứng nhiệt tình. Để tự chủ về tài chính, Chính phủ đã phát hành giấy bạc Việt Nam, khắc phục tình trạng độc quyền phát hành tiền tệ của các thế lực ngoại bang, tự chủ về mặt tài chính. Những chủ trương, chính sách trên đó đã nâng cao sức mạnh nền kinh tế đất nước, giúp Chính phủ vượt qua được khó khăn, tạo tiềm lực ban đầu cho cả nước bước vào kháng chiến chống thực dân Pháp.

 Thực tiễn cho thấy, sự phát triển kinh tế vững chắc có tác động trực tiếp đến chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ. Việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh là nội dung đặc biệt quan trọng trong xây dựng tiềm lực và thế trận của khu vực phòng thủ, phát triển kinh tế phải gắn chặt với yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh và phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Các chương trình, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế phải dựa trên cơ sở bảo đảm về thế trận khu vực phòng thủ, và thế trận của nền quốc phòng toàn dân. Các cuộc chiến tranh diễn ra gần đây trên thế giới do các nước đế quốc tiến hành đều sử dụng vũ khí, phương tiện công nghệ cao. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải triển khai xây dựng các công trình quốc phòng ngày càng hoàn chỉnh, có chiều sâu, liên hoàn, vững chắc. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế nước ta còn khó khăn, nên cần tập trung xây dựng các công trình trọng điểm phòng thủ biên giới, biển, đảo và thềm lục địa, các hầm ngầm, địa đạo, sân bay, bến cảng, đường cơ động, các chốt chiến dịch, chiến lược, v.v. Thực hiện tốt điều này, vừa đáp ứng được yêu cầu trước mắt, vừa tạo ra thế trận quốc phòng toàn dân ngày càng vững chắc, nhằm đối phó với mọi tình huống chiến tranh có thể xảy ra.

Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, vừa mạng tính cấp thiết, vừa mang tính cơ bản lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm về tổ chức thực hiện thắng lợi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954) đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Đại tá, TS. NGUYỄN VĂN LƯỢNG, Trưởng phòng Quản lý khoa học
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

Ý kiến bạn đọc (0)

Các tin, bài đã đưa

Hà Nội chung sức, đồng lòng phát triển thủ đô nhanh, bền vững theo hướng đô thị xanh, Thành phố thông minh, hiện đại 23/12/2021

Toàn quốc kháng chiến - bài học về xây dựng Quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới 19/12/2021

Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Công an nhân dân và Quân đội nhân dân trong tình hình mới 18/12/2021

Xã luận: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại 17/12/2021

Phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến, xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần của nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới 16/12/2021

“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” - cương lĩnh về khát vọng hòa bình của dân tộc 15/12/2021

Phát huy bài học về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong toàn quốc kháng chiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay 14/12/2021

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – Lời hịch thời đại Hồ Chí Minh 13/12/2021

Lực lượng vũ trang Quân khu 3, phát huy thắng lợi mở đầu toàn quốc kháng chiến, xây dựng tiềm lực quốc phòng vững mạnh 12/12/2021

Tuổi trẻ Việt Nam phát huy tinh thần “Quyết tử để tổ quốc quyết sinh” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 10/12/2021

Xã luận: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại
Kỷ niệm 75 năm Ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946 - 19/12/2021) là dịp để chúng ta một lần nữa khẳng định giá trị, ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại của sự kiện lịch sử trọng đại này. Đặc biệt, những bài học được rút ra từ sự kiện đó, trong thời điểm lịch sử có tính bước ngoặt đối với vận mệnh của dân tộc còn nguyên giá trị.