QPTD -Thứ Năm, 25/02/2016, 08:04 (GMT+7)
Chế độ, chính sách mới về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với quân nhân và người lao động trong Quân đội

Năm 2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi và Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung; trong đó, có nhiều điểm mới, tiến bộ theo hướng có lợi cho người lao động. Đây là lần đầu tiên quân nhân tại ngũ thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm y tế -  một chính sách hoàn toàn mới đối với Quân đội và mỗi quân nhân.

Thiếu tướng Hồ Thủy báo cáo về tình hình thực hiện chính sách, chế độ, quản lý và sử dụng quỹ BHXH trong Quân đội năm 2015. (Ảnh: bqp.vn)

Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Bảo hiểm y tế được ban hành là sự tiếp tục quán triệt và thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách an sinh xã hội, trong đó chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai trụ cột quan trọng.

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01-01-2016, trong đó có nhiều nội dung bổ sung, sửa đổi phù hợp với thực tiễn nhằm bảo vệ quyền lợi về lâu dài của người lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với những quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện được mở rộng hơn. Để bảo đảm quyền lợi của người lao động, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trước tình trạng trốn đóng, chậm đóng, nợ đọng bảo hiểm của nhiều doanh nghiệp, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 bổ sung cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế thay vì chỉ là trách nhiệm của Thanh tra chuyên ngành Lao động - Thương binh và Xã hội như trước đó. Đồng thời, bổ sung quy định quyền lợi của người lao động, sửa đổi quy định mức hưởng trợ cấp ốm đau, thai sản một ngày được tính bằng mức trợ cấp theo tháng chia cho 24 ngày (hiện hành chia cho 26 ngày); tăng mức trợ cấp ốm đau đối với người lao động mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày từ 45% lên 50% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm; sửa đổi quy định mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi ốm đau một ngày bằng 30% mức lương cơ sở (hiện hành quy định bằng 25% nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe tại gia đình và bằng 40% nếu nghỉ tại cơ sở tập trung).

Chế độ thai sản cũng thêm nhiều quy định mới, vượt trội về quyền lợi thụ hưởng của người lao động. Sửa đổi quy định thời gian hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ khi sinh con, nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động năm 2012. Bổ sung quy định lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 5 đến 14 ngày làm việc, tùy theo từng trường hợp cụ thể. Bổ sung chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ. Bổ sung quy định trợ cấp một lần khi sinh con đối với trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội. Từ quy định của Luật về chế độ thai sản đối với lao động nữ và lao động nam có vợ sinh con trên đây, với đặc thù của môi trường hoạt động quân sự, các cơ quan, đơn vị quân đội cần quan tâm sắp xếp, điều chỉnh công việc phù hợp cả đối với lao động nữ và nam, để bảo đảm quyền lợi của người lao động và góp phần hoàn thành nhiệm vụ đơn vị.

Về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, giữ nguyên các quy định về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006; nội dung chế độ này đã được chuyển sang Luật An toàn vệ sinh lao động.

Hưu trí là chế độ quan trọng nhất trong các chế độ bảo hiểm xã hội. Những quy định mới về chế độ này có tác động lớn đến tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người lao động nói chung, cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang nói riêng.

Về điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động: Quy định lộ trình tăng dần tuổi hưởng lương hưu đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80% từ nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi lên 55 tuổi đối với nam và 50 tuổi đối với nữ. Sửa đổi quy định giảm trừ tỷ lệ hưởng lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi quy định từ 1% theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 thành 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định, nhằm tránh tình trạng người sử dụng lao động muốn cho người lao động nghỉ sớm.

Để đảm bảo nguyên tắc đóng - hưởng và khả năng cân đối quỹ hưu trí và tử tuất trong dài hạn, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã quy định tăng dần thời gian đóng bảo hiểm xã hội để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75% khi có đủ 30 năm đối với nữ và 35 năm đối với nam. Tuy nhiên, lộ trình điều chỉnh có sự khác nhau rất lớn giữa lao động nam và nữ, cụ thể: đối với lao động nam, để được hưởng lương hưu với mức tối đa là 75% thì điều kiện như sau: bắt đầu nghỉ hưu từ năm 2018, số năm đóng bảo hiểm xã hội là 31 năm; năm 2019 là 32 năm; năm 2020 là 33 năm; năm 2021 là 34 năm và từ năm 2022 trở đi số năm đóng bảo hiểm xã hội phải là 35 năm; đối với lao động nữ, để được hưởng lương hưu ở mức tối đa 75%, ngay lập tức, bắt đầu nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi phải tham gia đóng bảo hiểm xã hội đủ 30 năm.

Về chế độ bảo hiểm xã hội một lần, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 cũng quy định theo hướng thắt chặt, chỉ giải quyết với những người lao động đã hết tuổi lao động mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài định cư hợp pháp. Với những lao động còn tuổi lao động, có thể bảo lưu thời gian tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc để khi có điều kiện thì tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nơi khác và được tính liên thông hai loại hình bảo hiểm xã hội này đến khi đạt đủ số năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ tuổi đời thì được hưởng lương hưu. Điều này thể hiện tính ưu việt và nhân văn của Luật Bảo hiểm xã hội mới, bảo đảm người lao động khi về già sẽ có lương hưu để duy trì chất lượng cuộc sống. Riêng với lực lượng vũ trang, nội dung này vẫn thực hiện như quy định hiện hành. Quân nhân nếu không đủ điều kiện để hưởng lương hưu và có nhu cầu thì được giải quyết bảo hiểm xã hội một lần ngay khi phục viên, xuất ngũ.

Luật cũng sửa đổi cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định theo hướng có lộ trình, tiến tới tính bình quân toàn bộ thời gian đóng như người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định.

Về chế độ tử tuất, bổ sung quy định cho phép thân nhân người lao động đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hằng tháng được lựa chọn hưởng trợ cấp tuất một lần, trừ trường hợp con dưới 6 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng mà bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có nhiều điểm mới, tiến bộ, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho các đối tượng tham gia, cân đối hơn giữa đóng và hưởng, hướng tới mục tiêu quyền lợi về an sinh xã hội của người lao động ngày một tốt hơn và sự an toàn của quỹ bảo hiểm xã hội được bảo đảm ổn định, chắc chắn, lâu dài. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể, ở những thời điểm cụ thể, sẽ có những bộ phận người lao động bị giảm quyền lợi thụ hưởng so với quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006. Vì vậy, từng người lao động và lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị các cấp cần hết sức quan tâm, nâng cao hiểu biết các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, tổ chức và chính sách ở đơn vị để chủ động giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội. Đặc biệt là, khi giải quyết chế độ hưu trí đối với người lao động nói chung, lao động nữ nói riêng cần nghiên cứu, cân nhắc kỹ, linh hoạt; kết hợp với quy định mới về hạn tuổi phục vụ tại ngũ của Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng (có hiệu lực từ ngày 01-7-2016) phù hợp điều kiện từng đơn vị, đảm bảo quyền lợi cho người lao động ở mức tốt nhất và đúng quy định của pháp luật.

Về chính sách bảo hiểm y tế đối với quân nhân tại ngũ, ngày 01-9-2015 Chính phủ ban hành Nghị định 70/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu. Điểm đáng chú ý là, việc thực hiện bảo hiểm y tế đối với quân nhân chỉ thay thế phương thức thực hiện và nguồn bảo đảm tài chính trong khám bệnh, chữa bệnh thường xuyên từ ngân sách nhà nước sang quỹ bảo hiểm y tế. Các khoản ngân sách nhà nước bảo đảm cho các nhiệm vụ khác về quân y của Quân đội, vẫn thực hiện theo quy định hiện hành. Nghị định cũng nêu rõ, việc bảo đảm y tế cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, thảm họa và thời chiến đối với Quân đội thực hiện theo quy định của Chính phủ. Chính sách bảo hiểm y tế đối với quân nhân thực sự được thi hành từ ngày 01-01-2016 với quân nhân một số đơn vị và sẽ mở rộng dần.

Về lộ trình thực hiện, Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định cụ thể đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý tham gia bảo hiểm y tế, theo các giai đoạn: năm 2016 - 2017 ít nhất là 30%; năm 2018 - 2019 ít nhất là 60%; và từ ngày 01-01-2020 thực hiện đối với 100% quân nhân. Đối với các đơn vị chưa tham gia bảo hiểm y tế (theo lộ trình), vẫn thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh và do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh như quy định hiện hành .

Việc đóng bảo hiểm y tế cho quân nhân hoàn toàn do ngân sách nhà nước bảo đảm, hiện nay tính bằng 4,5% tiền lương tháng (đối với người hưởng lương) và 4,5% mức lương cơ sở (đối với người hưởng sinh hoạt phí).

Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng cấp thẻ bảo hiểm y tế theo mẫu riêng cho quân nhân. Thẻ có giá trị sử dụng trên toàn quốc. Quân nhân được lựa chọn đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại một trong các cơ sở y tế quân y hoặc dân y có hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế với cơ quan bảo hiểm xã hội thuận tiện nơi đóng quân, cư trú, thường trú. Đó là các bệnh xá, bệnh viện quân đội hoặc trạm y tế xã, phòng khám khu vực hoặc bệnh viện đa khoa tuyến huyện. Khi cần chuyển tuyến điều trị cũng được chuyển các bệnh viện quân y hoặc dân y nơi thuận tiện, phù hợp nhất. Như vậy, bằng việc thực hiện bảo hiểm y tế, quân nhân được quyền khám bệnh, chữa bệnh tại khoảng 1.170 bệnh viện quân y, dân y trên toàn quốc, thay vì chỉ trong 34 bệnh viện quân y như hiện nay và liên thông quân y, dân y. Đây là sự thay đổi lớn, hoàn toàn mới so với trước đây. Theo đó, tham gia khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế sẽ có sự cạnh tranh lành mạnh giữa các bệnh viện, bệnh xá quân y; giữa quân y và dân y; giữa y tế công lập và y tế tư nhân. Thông qua khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế, hệ thống quân y sẽ có sự thay đổi theo hướng tinh - gọn - mạnh.

Đối với cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại các bệnh viện được giao nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, như: Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, Bệnh viện Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện C Đà Nẵng, v.v. Cán bộ thuộc diện tỉnh, thành phố quản lý, được đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại phòng khám của ban bảo vệ sức khỏe cán bộ tỉnh, thành phố hoặc bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố. Trường hợp đi công tác, nghỉ phép tại nơi khác hoặc cấp cứu thì được khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế thuận tiện nhất và được hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế đúng với nơi đăng ký khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu.

Quân nhân đi khám bệnh, chữa bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế có phạm vi hưởng, mức hưởng cao nhất so với tất cả các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế. Tùy theo chỉ định chuyên môn mà quyền lợi bảo hiểm y tế của quân nhân được hưởng ở 3 mức: (1) 100% chi phí trong danh mục bảo hiểm y tế, do Quỹ Bảo hiểm y tế quân nhân chi trả; (2) 100% chi phí ngoài danh mục bảo hiểm y tế nếu theo chỉ định chuyên môn mà thuốc, dịch vụ kỹ thuật y tế đó được phép lưu hành tại Việt Nam, do Quỹ Bảo hiểm y tế quân nhân chi trả; (3) nếu vẫn phải điều trị tiếp theo chỉ định chuyên môn mà quỹ hết thì do ngân sách nhà nước trả (trừ trường hợp quân nhân khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu cá nhân thì Quỹ Bảo hiểm y tế quân nhân chỉ chi trả ở mức 1, phần còn lại quân nhân tự chi trả).

Về Quỹ Bảo hiểm y tế quân nhân, Bộ Quốc phòng được giữ 90% tổng thu bảo hiểm y tế quân nhân để quản lý, sử dụng trong Quân đội, 10% còn lại chuyển Bảo hiểm xã hội Việt Nam để nhập vào quỹ dự phòng và phí quản lý chung. Nếu có kết dư Quỹ Bảo hiểm y tế quân nhân thì từ năm 2016 đến 2020, 100% được giữ lại trong Bộ Quốc phòng; từ năm 2021 trở đi, 30% nộp Bảo hiểm xã hội Việt Nam để nhập vào quỹ dự phòng chung toàn quốc, 70% giữ lại Bộ Quốc phòng để góp phần nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh cho bộ đội, mua sắm trang thiết bị y tế; mua phương tiện vận chuyển ở đơn vị cơ sở. Với việc khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế, đội ngũ bác sĩ, nhân viên quân y ở cả bệnh viện, bệnh xá được nâng cao tay nghề, thu nhập, sống bằng nghề, yên tâm phục vụ Quân đội, nhất là bác sĩ quân y ở đơn vị cơ sở.

Để thực hiện tốt chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong Quân đội, mang lại hiệu quả thiết thực đối với quân nhân và người lao động trong Quân  đội, cần làm tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

Trước hết, phải coi trọng công tác tuyên truyền. Ngành Bảo hiểm xã hội trong Quân đội phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng ở đơn vị, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp, phổ biến các chế độ, chính sách đến từng quân nhân và người lao động, nhất là chính sách bảo hiểm y tế quân nhân, để họ hiểu thấu đáo về chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tự giác, tự nguyện, tự tin thực hiện Luật, thấy được lợi ích mang lại cho chính bản thân mình để tham gia có hiệu quả.

Thứ hai, đối với Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, cần quán triệt, chỉ đạo trong toàn quân việc thực hiện giải quyết chính sách khi nghỉ hưu đối với quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng, nhất là lao động nữ. Rà soát lại quy hoạch, kế hoạch sử dụng nguồn nhân lực để có kế hoạch chuyển ra phù hợp trong các năm 2016, 2017, trên cơ sở quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Sĩ quan, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng; chú ý đối với lao động nữ chuyển ra ở thời điểm giáp ranh giữa năm 2017 và năm 2018, 2019. Tổ chức thực hiện thấu đáo vấn đề này sẽ bảo đảm quyền lợi cho quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng ở mức tốt nhất, góp phần nâng cao hiệu quả tinh giản biên chế, ổn định tư tưởng, tổ chức ở từng đơn vị và trong toàn quân.

Thứ ba, chính sách bảo hiểm y tế đối với quân nhân tại ngũ là vấn đề hoàn toàn mới cả về nhận thức, tư duy, thói quen, tâm lý và đặc biệt là phương thức tổ chức thực hiện; tác động lớn tới tư tưởng, tình cảm của mọi quân nhân và cả hệ thống quân y. Do đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, từ Thường vụ Quân ủy Trung ương tới cấp ủy các cấp trong việc quán triệt, triển khai chính sách bảo hiểm y tế quân nhân là hết sức cấp thiết, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong tổ chức thực hiện, với phương châm vừa làm, vừa điều chỉnh, bổ sung, hạn chế sơ suất, sai sót; phối hợp tốt giữa các cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng, giữa cơ quan với đơn vị, giữa hệ thống quân y và dân y, giữa ngành y tế và ngành bảo hiểm xã hội, phấn đấu đảm bảo tốt nhất quyền lợi chăm sóc sức khỏe cho bộ đội.

Thứ tư, nâng cao trách nhiệm, tính chủ động của hệ thống quân y trong nghiên cứu chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế quân nhân; xây dựng, hoàn thiện cơ chế, quy chế quản lý quỹ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế; chuẩn bị về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cơ sở vật chất kỹ thuật; phối hợp hệ thống quân y và dân y, đáp ứng yêu cầu tổ chức khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế và thực hiện khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế quân nhân; hạch toán rõ ràng giữa ngân sách quốc phòng và Quỹ Bảo hiểm y tế quân nhân; đặc biệt coi trọng giáo dục y đức trong đội ngũ cán bộ, nhân viên quân y.

Thứ năm, tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với Bảo hiểm xã hội Việt Nam, bảo hiểm xã hội 63 tỉnh (thành phố) và Tập đoàn Viễn thông Quân đội (theo chương trình hợp tác giữa Bảo hiểm xã hội Việt Nam - Bộ Y tế - Viettel), bảo đảm công nghệ thông tin để quản lý việc khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho quân nhân nói riêng và nhân dân nói chung, quản lý Quỹ Bảo hiểm y tế quân nhân chặt chẽ theo phần mềm bảo hiểm y tế mới, thống nhất trên toàn quốc.

Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tác động trực tiếp, thường xuyên, thiết thực, lâu dài đối với mỗi người lao động nói chung, quân nhân tại ngũ nói riêng và thân nhân quân nhân. Vì vậy, mỗi quân nhân, người lao động trong Quân đội cần hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình, cùng sự triển khai đồng bộ nhiều giải pháp của lãnh đạo, chỉ huy và các cơ quan chức năng (Quân lực, Cán bộ, Tài chính, Quân y) các cấp trong tổ chức thực hiện, góp phần bảo đảm đầy đủ, chính xác, thuận lợi quyền lợi cho quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng và thân nhân quân nhân.

Thiếu tướng HỒ THỦY, Giám đốc Bảo hiểm xã hội Bộ Quốc phòng

Ý kiến bạn đọc (0)

Chiến thắng 30 tháng Tư - ý nghĩa to lớn, giá trị vững bền
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước trước đây, cũng như trong lịch sử cận đại của dân tộc, có những sự kiện lịch sử diễn ra như một tất yếu, càng thêm thời gian càng thấy rõ hơn và nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa trọng đại, giá trị vững bền của sự kiện đó. Chiến thắng 30 tháng Tư năm 1975 là sự kiện chính trị đặc biệt như thế.